RÒ TÁ TRÀNG SAU PHẪU THUẬT TÁ TỤY DO CHẤN THƯƠNG

RÒ TÁ TRÀNG SAU PHẪU THUẬT TÁ TỤY DO CHẤN THƯƠNG

 RÒ TÁ TRÀNG SAU PHẪU THUẬT TÁ TỤY DO CHẤN THƯƠNG 

Phan Đương*, Phùng Tấn Cường*, Phạm HữuThiện Chí*, Trương Nguyễn Duy Linh*, 
Lê Hoàng Anh*, Nguyễn Văn Hiệp*, Trần Tuấn*, Nguyễn Hữu Toản * 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Rò tá tràng (RTT) là một biến chứng nặng sau phẫu thuật can thiệp vùng tá tụy, việc điều trị RTT gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu này nhằm xác định những đặc điểm thương tổn và thái độ xử trí RTT sau phẫu thuật chấn thương tá tụy. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Phương pháp hồi cứu và phân tích số liệu bệnh nhân RTT sau xử trí chấn thương tá tụy; đã được điều trị tại khoa ngoại tiêu hóa bệnh viện Chợ Rẫy từ 2-8-1998 đến 2-8-2004. 
Kết qủa: Có 15 trường hợp RTT sau can thiệp vùng tá tụy do chấn thương. Vị trí thương tổn thường gặp trong RTT là ở D2 (ngang và dưới Oddi) và D3-4 chiếm 80%. Cá c phương phá p phẫ u thuậ t đã đượ c thự c hiệ n: Khâu thương tổn + dẫn lưu dạ dày-tá tràng, hoặc nối vịtràng +/- mở hỗng tràng nuôi ăn (9 lần), khâu thương tổn + dẫn lưu tá tràng bằng ống Kehr + nối vị tràng(1lần), khâu thương tổn + ddn lưu 3 ống (4 lần) , khâu hoặ c nố i tá trà ng vớ i quai ruột biệt lập kiễ u Roux-en-Y (6 lầ n).* Cung lượng rò từ 50ml đến 2000ml/ngày; trung bình 324ml/ngày.* Tỷ lệ tử vong 2/15 ca chiếm tỷ lệ 13,33%, nếu loại trừ 2 ca tử vong này do nguyên nhân nhiễm trùng nhiễm độc, được tuyến dưới đưa đến muộ n;chết trong thời gian ngắn sau khi nhập viện, chưa kịp can thiệp phẫu thuật lại; thì tỷ lệ tử vong của bệnh nhân RTT được điều trị nội bảo tồn + nuôi ăn sớm qua sonde là không ca nào (tỷ lệ 0%)

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment