RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU GIẢM TIỂU CẦU TRÊN CÁC SẢN PHỤ CÓ HỘI CHỨNG HELLP TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ NĂM 2010

RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU GIẢM TIỂU CẦU TRÊN CÁC SẢN PHỤ CÓ HỘI CHỨNG HELLP TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ NĂM 2010

 RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU GIẢM TIỂU CẦU TRÊN CÁC SẢN PHỤ CÓ HỘI CHỨNG HELLP TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ NĂM 2010

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hội chứng HELLP đã được Weinstein mô tả lần đâu tiên từ năm 1982 đặc trưng hởi tán huyết, tăng men gan, và giảm tiểu câu(10). Tăng nguy cơ đông máu nội mạch lan tỏa (DIC), nhau bong non, suy thậncấp,phùphổi,vỡ gan. Chấmdứt thaikỳlà phương pháp đỉêutrị dứtđiểm giúpcảithiệntiên
lượng nặng và tử vong trên bệnh nhân hội chứng HELLP, tuy nhiên hâu hết các trường hợp đêu có giảm tiểu cầu từ trung bình đến nặng khiên cho việc chấm dứt thai kỳ trở nên khó khăn, đe dọa tính mạng cả mẹ và con khi can thiệp thủ thuật hay mổ lấy thai. Trong năm 2010 có 54 trường hợp được chẩn đoán hội chứng HELLP được đỉêu trị tại khoa hồi sức bệnh viện Từ Dũ, hâu hết được chuyển từ bệnh viện các tỉnh, trong tìnhtrạng có tiên lượngnặng nêluôn là thách thức lớnvớitậpthể’độingũcác bácsĩ hồisức,sản
khoa và huyết học. Do đó chúng tôi quyết định làm đê tài “Rối loạn đông máu giảm tiểu câu trên các sản phụ có hội chứng HELLP tại bệnh viện Từ Dũ năm 2010 ” .
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt ca, 30 ca thỏa 3 tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng HELLP. Mô tả các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, kết quả thai kỳ của mẹ và con. Nhập số liệu bằng phân mêm EpiData 3.1, phân tích bằng Stata 10.0.
Kết quả: Tỷ lệ các triệu chứng lâm sàng: protein niệu 85,7%, tăng huyết áp 86,2%, đau hạ sườn phải/đau thượng vị 24,1%, nôn / buồn nôn 6,8%0, đau đâu 58,6%0, thay đôi thị lực 13,8%.
Các xét nghiệm cận lâm sàng: AST 328,5 ± 124,74 UI, ALT 194 ± 59,72 UI, tiểu câu 76,9 ± 36,3×109, Fibrinogen 299,8 ± 112,3, TQ 13,05 ± 0,45s, TCK 33,65 ± 0,92s, Bilirubin TP 42,7 ± 15,34, Bilirubin TT 10,9 ± 7,9. Kết quả mẹ: Xuất huyết não 6,6%, rối loạn đông máu 73,3%0, suy thận cấp 6,6%, vỡ gan 3,3%, phẫu thuật lại 3,3%, DIC 3,3%, truyên máu hay chế’phẩm của máu 86,7%, bao gồm truyên Kông câu lắng 13,3%, trung bình 2,5 ± 1 đơn vị hồng câu lắng, truyên tiểu câu 80%, trung bình 7,1 ± 3.3 đơn vị tiểu câu, truyên yếu tố đông máu 3,3%, trung bình 4 đơn vị. Men gan trở vê bình thường 4 ± 1,8 ngày, tiểu câu trở vê bình thường 4,3 ± 1,7 ngày. Khỏi bệnh 25 ca, bệnh nặng xuất viện: 1 ca, tử vong: 1 ca, chuyển viện: 3 (1 xuất huyết não, 1 suy thận cấp, 1 vỡ gan), tỉ lệ tử vong 13,3%. Kết quả con: Chấm dứt thai kỳ ở tuôi thai 33,38 ± 4,4 (từ 23 đến 40 tuân), cân nặng 1859,2 ± 658,1 gam, APGAR 1 phút 5 ± 2,4 điểm, APGAR 5 phút 6,3 ± 2,5 điểm, tử vong 10%.
Kết luận: Kết quả thai kỳ hội chứng HELLP ở mẹ nhìn chung tốt, nhưng vẫn xảy ra những biến chứng nặng như nhau hong non, suy thận cấp, máu tụ dưới bao gan và xuất huyết não. Hâu hết HELLP phát triển ở tuôi thai dưới 37 tuân. Nhưng cân chấm dứt thai kỳ càng sớm càng tốt, thậm chí thai non tháng. Sau khi sanh con hội chứng HELLP sẽ cải thiện, hau hết các biến chứng sẽ hết. Gân phân nửa số bệnh nhân có tiểu câu giảm dưới 60×109, mô’lấy thai và can thiệp sản khoa không an toàn, tuy nhiên sẽ đáp ứng truyên tiểu câu và tiểu câu sẽ phục hồi vào ngày thứ tư sau sanh.
Ổn định nội khoa, truyên máu và các chế phẩm của máu nếu có chỉ định là điêu kiện tiên quyết giúp cứu sống bệnh nhân và cho phép thực hiện các thủ thuật sản khoa. Cân nhiêu nghiên cứu hơn nữa giúp phát hiện sớm hội chứng HELLP, điêu trị giảm nhẹ và chấm dứt thai kỳ sao cho có lợi cho cả mẹ và con.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment