Sàng lọc 4 đột biến thường gặp trên gen slc25a13 gẩy bệnh thiêu hụt citrin bằng kĩ thuật sinh học phân tử
Bệnh thiếu hụt Citrin là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường do đột biến gen SCL25A13 trên nhiễm sắc thể số 7 qui định. Tỷ lệ người mang gen bệnh trong quần thể người Nhật Bản ước tính là 1/65. Mục tiêu: Sàng lọc 4 đột biến thường gặp bao gồm đột biến thêm đoạn, mất đoạn và đột biến điểm trên gen SLC25A13 gây bệnh thiếu hụt Citrin. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 25 mẫu máu ngoại vi của bệnh nhân nghi ngờ thiếu hụt Citrin tại Bệnh viện (BV) Nhi TƯ từ tháng 5 – 7/2009. Áp dụng kĩ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) và PCR-RFLP (Restriction Fragment Length Polymorphism) để sàng lọc 4 đột biến trên. Kết quả: 3 trường hợp mang đột biến mất đoạn đồng hợp tử và1trường hợp mang đột biến mất đoạn dị hợp tử với đột biến 851del4; 1 trường hợp mang đột biến điểm dị hợp tử với đột biến IVS6+5 G^A, 1 trường hợp mang đột biến thêm đoạn đồng hợp tử với đột biến IVS16ins3kb, không có trường hợp nào mang đột biến thêm đoạn 1638ins23. Kết luận: Áp dụng kỹ thuật sinh học phân tử để sàng lọc 4 đột biến thường gặp trên gen SLC25A13 góp phần quan trọng trong chần đoán xác định bệnh thiếu hụt Citrin, kiểm soát sự tiến triển của bệnh và phòng bệnh bằng tư vấn di truyền.
Từ khoá: Citrin deficiency, NICCD, CTLN2, Citrullinemia, PCR, PCR-RFLP.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu hụt citrin (Citrin deficiency) là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc the thường, do đột biến gen SLC25A13 nằm trên cánh dài NST số 7 qui định (7q21.3)[2]. Citrin – protein vận chuyển Aspartate-Glutamate (Aspartate Glutamate Carrier), đóng vai trò thiết yếu trong quá trình tổng hợp ure và kênh vận chuyển aspartate-malate (aspartate-malate shuttle – MA shuttle) [1],[3],[6]. Sự thiếu hụt Citrin ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp protein, tái tạo glucose và sinh tổng hợp nucleotit [6],[7].
Ở khu vực Đông Á, tần suất người mang gen bệnh trong các quần thể không đồng đều: ở Nhật Bản: 1/65; Trung Quốc: 1/63; Hàn Quốc: 1/108 [4]. Hiện chưa có nghiên cứu nào về tần suất người mang gen bệnh tại Việt Nam.
Thiếu hụt Citrin được chia thành hai thể lâm sàng dựa vào độ tuổi khởi phát: Viêm gan ứ mật ở sơ sinh (Neonatal intrahepatic cholestatic hepatitis caused by citrin deficiency – NICCD) và Tăng citrullin typ II khởi phát ở tuổi trưởng thành (Adult-onset type II Citrullinemia – CTLN2) [6].
Gen gây bệnh của cả hai thể lâm sàng nằm trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 7 (7q21.3), có kích thước khoảng 200 kb, gồm 18 exon và mã hóa cho 675 axit amin (aa), cấu tạo thành Citrin. Citrin chủ yếu biểu hiện ở gan là cơ quan đóng vai trò chuyển hóa nhiều chất khác nhau [1],[3,[7]. Nhiều đột biến đã được tìm thấy trên gen SLC25A13, tuy nhiên, chỉ một số đột biến thường gặp: đột biến số I (851del4), đột biến số III (1638ins23), đột biến số X (IVS6+5 G^A) và đột biến số XIX (IVS16ins3kb) [4],[8].
Ngoại trừ một số ca bị rối loạn chức năng gan nghiêm trọng cần phải ghép gan, NICCD thường không nghiêm trọng vì các triệu chứng sẽ biến mất khi trẻ đầy 1 tuổi. Tuy nhiên, sau 10 năm hoặc lâu hơn nữa, một số bệnh nhân có thể chuyển sang CTLN2 với các triệu chứng liên quan đến thần kinh, có thể nguy hiểm đến tính mạng [1],[5]. Ngoài ra, các triệu chứng, và các kỹ thuật sử dụng trong chẩn đoán xác định bệnh thiếu hụt Citrin như xét nghiệm sinh hóa thường không đặc hiệu [8]. Hiện nay, kỹ thuật sinh học phân tử là phương pháp duy nhất để chẩn đoán xác định bệnh nhân nghi ngờ mắc thiếu hụt Citrin, góp phần quan trọng trong phát hiện sớm và ngăn chặn NICCD chuyển sang CTLN2 [7],[8]. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Sàng lọc 4 đột biến thường gặp trên gen SLC25A13 bằng kỹ thuật PCR và PCR-RFLP.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng
Bệnh nhi có độ tuổi từ 0-18 tuổi đến khám và điều trị tại Bệnh viện Nhi trung ương từ tháng 5/2009-7/2009 có các triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh thiếu hụt Citrin. Bệnh nhân thường có các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng theo Saheki và cs [1], [11].
Đặc điểm lâm sàng:
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích