Sàng lọc khuyết đoạn gen bệnh loạn dưỡng cơ duchenne trên tế bào ối thai phụ có nguy cơ cao
DMD là bệnh có tiên lượng nặng, di truyền lặn liên kết nhiễm sắc thể X, bị gây nên bởi đột biến gen dystrophin. Thật cần thiết để phòng tránh sựra đời của những trẻ nam bị bệnh DMD. Mục tiêu:nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật Multiplex PCR sàng lọctrước sinh bệnh DMD. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:thu thập tế bào dịch ối từ những thai phụ có nguy cơ, chiết tách ADN từ tế bào ối. Bước 1: sàng lọc xác định giới bằng kỹ thuật PCR với 2 cặp mồi cho gen TDF và DQ a; bước 2: phát hiện mất đoạn gen ở bệnh nhân DMD và thai nam bằng kỹ thuật Multiplex PCR với 25 cặp mồi. Kết quả:6 phụ nữ có thai, lần trước đã sinh con bị bệnh DMD được thực hiện sàng lọc, 4 thai nữ được phát hiện với gen TDF (-); 2 thai nam được phát hiện với TDF (+); sàng lọc bước 2 cho 2 thai nam đã phát hiện 2 thai nam không có đột biến mất đoạn được so sánh với bệnh nhân DMD của 1 gia đình có mất đoạn exon 50, 51, 52; bệnh nhân của gia đình thứ 2 mất đoạn exon 12 – > 17; 2 thai nam được chẩn đoán là không bị bệnh DMD. Kết luận:phương pháp PCR cho xác định giới và đột biếnmất đoạn là phương pháp chính xác và nhanh, rất ích lợi để góp phần phòng tránh sinh con trai bị bệnhDMD.
Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne (Duchenne muscular dystrophy – DMD) là bệnh cơ di truyền
lặn liên kết nhiễm sắc thể (NST) X phổ biếnnhất, tần số 1/3500 trẻ trai. DMD là bệnh khó có khả năng chữa trị, điều trị gen rất tốn kém và còn gặp nhiều khó khăn lớn, tiên lượng của bệnh nặng có thể dẫn đến tàn phế và chết trước tuổi trưởng thành. Bệnh bị gây nên do đột biến gen dystrophin, gen này nằm trên nhánh ngắn của NST X, vị trí (Xp21.1), với kích thước 3000 Kb, chứa 79 exon và ít nhất 7 promoter đặc hiệu mô, gen tổng hợp ra dystrophin, protein này tham giavào chức năng cấu trúc và bảo vệ màng tế bào cơ [8]. Vị trí (locus) gen dystrophin rất không vững bền: 1/3 những trường hợp DMD do đột biến mới không có tiền sử di truyền, 2/3 do nguyên nhân di truyền. Khoảng 50 – 70% những trường hợp DMD gây nên là do đột biến mất đoạn lớn, 6% làdo nhân đoạn. Cả hai những mất đoạn lớn và nhân đoạn được tập trung thành đám ở 2 vùng: vùng tận cùng 5’ từ exon 1–19, vùng trung tâm của gen từ exon 43 – 60 [1, 2]. Những trường hợp còn lại
là do đột biến điểm hoặc do những đột biến mất đoạn hoặc nhân đoạn nhỏ, thường trải dài dọc theo toàn bộ gen [8].
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích