Sàng lọc rối loạn nuốt theo guss ở bệnh nhân đột quỵ não cấp tại bệnh viện Cà Mau năm 2010

Sàng lọc rối loạn nuốt theo guss ở bệnh nhân đột quỵ não cấp tại bệnh viện Cà Mau năm 2010

Xác đinh tỷ lệ rối loạn nuốt và khảo sát mối liên quan của rối loạn nuốt với viêm phổi cũng như ẩnh hưởng lên toàn cục ở bệnh nhân đột quỵ não cấp. Nghiên cứu trên 80 trường hợp đột quỵ não cấp từ 08/2010- 12/2010 có rối loạn nuốt theo GUSS. Kết quả: tỷ lệ rối loạn nuốt là 82,5%. Tỷ lệ viêm phổi ớ nhóm bệnh nhân có rối loạn nuốt là 65.2% so với 7,1% ở nhóm không có rối loạn nuốt OR 24,3 (95% Cl 3 -197,7) p < 0,001. Kết luận: Có thể rối loạn nuốt là nguyên nhân chính gây viêm phổi ở bệnh nhân đột quỵ cấp, do đó cần thiết nghiên cứu và đề xuất quy trình nuôi dưỡng theo rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ.

Rối loạn nuốt là vấn đề thường gặp ở bệnh nhân đột quỵ não cấp, chiếm khoảng 42 – 67%
[3,5], gây hít sặc dẫn đến viêm phổi [1,4] với tỷ lệ lên đến 73,4% [8] và cũng là lý do chính phải sử dụng kháng sinh. Viêm phổi tăng nguy cơ tử vong gấp 5,4 lần [1,4]. Trong đó, rối loạn nuốt làm tăng nguy cơ viêm phổi gấp 3,17 lần và hít sặc tăng nguy cơ viêm phổi gấp 6,95 – 11,57 lần, thậm chí đến 18 lần. Triệu chứng rối loạn nuốt sau đột quỵ rất thường gặp, chiếm 51 – 55%, có nghiên cứu đến 76,5%. Phát hiện sớm rối loạn nuốt không những giúp hạn chế nguy cơ viêm phổi hít mà còn giúp giảm nguy cơ suy dinh dưỡng, giảm thời gian nằm viện và tỉ lệ tử vong. Vì vậy việc tầm soát rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ cấp đã được xem là một trong những biện pháp làm giảm biến chứng cũng như tử vong. GUSS là một phương thức sàng lọc rối loạn nuốt tại giường dùng để hướng
2.    Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang tiến cứu
3.    Xử lý số liệu thống kê: số liệu được xử lý trên phần mềm SPSS 13.0 theo thuật toán thống kê y học.
III. KÉT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Tổng số 80 bệnh nhân được chẩn đoán đột quỵ não theo tiêu chuẩn của TCYTTG. Tuổi thấp nhất là 17, cao nhất là 93. Tuổi trung bình là 64,2 ± 13,8. Có 47 nam (58,8%) và 33 nữ (41,2%). Số bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp (THA) là 54 (67,5%); THA và đái tháo đường (ĐTĐ) là 3 (3,8%). Thời gian từ lúc xuất hiện triệu chứng đầu tiên tới khi nhập viện nhanh nhất là 10 phút, muộn nhất là 2.810 phút, trung bình là 374,6 ± 507,4 phút.
về đặc điểm rối loại nuốt trên bệnh nhân đột quỵ thì nhồi máu não gặp 59 trường hợp (73,8%) và xuất huyết não là 20 (26,3%). Phân loại mức độ nặng theo NIHSS, có 41 trường hợp nhẹ (51,3%), trung bình là 20 (25%) và nặng là 19 (23,8%) (Bảng 2). về kết quả điều trị (khi xuất viện), đạt kết quả tốt có 16 trường hợp (22%), khá 29 (36,3%), trung bình 29 (36,3%) và xấu 6 (7,5%).
về triệu chứng lâm sàng của rối loạn nuốt, gặp nhiều nhất là nuốt khó (75,8%), chảy nước dãi (50%), ho sau ăn (47%), khan giọng sau nuốt nước bọt (37,9%) và nghẹn (19,7%).
Đánh giá việc sàng lọc rối loạn nuốt theo phương thức GUSS
Trong tổng số 80 bệnh nhân đột quỵ, có 66 trường hợp có rối loạn nuốt (RLN) chiếm tỷ lệ 82,5%. Trong đó rối loạn nuốt nhẹ là 41 (51,3%), trung bình 17 (21,3%) và nặng là 8 (10%).

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment