Sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi ống mềm trong chẩn đoán một số bệnh ở phổi
Nội soi phế quản là một kỹ thuật cần thiết để chẩn đoỏn một số bệnh ở phổi và qua lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm mô bệnh học hoặc tế bào học vốn được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán [1; 3]. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có rất nhiều kỹ thuật được áp dụng để lấy bệnh phẩm qua nội soi phế quản ống mềm.
Sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi ống mềm là một trong số các kỹ thuật trên. Kỹ thuật này lần đầu tiên được sử dụng năm 1968 đối với các tổn thương nhu mô phổi lan tỏa và dần dần được triển khai đối với các tổn thương ở nhu mô phổi mà hình ảnh nội soi phế quản bình thường [4]. Kỹ thuật đơn giản, an toàn, ít tốn kém và ít tai biến. Một số trường hợp khối u phổi ở ngoại vi, STXTPQ cho phép chẩn đoán xác định tới 70 – 80% [2; 7]. Kết quả thu được phụ thuộc vào sự thuần thục của kỹ thuật sinh thiết như số lượng mảnh sinh thiết, vị trí sinh thiết …[4].
Ở Việt Nam, việc áp dụng kỹ thuật sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi ống mềm ở các trung tâm nội soi phế quản để chẩn đoán các tổn thương phổi ngoại vi và tổn thương phổi lan tỏa hoặc các tổn thương phổi kẽ còn ít. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu:
1. Nhận xét về hiệu quả chẩn đoán của sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi ống mềm trong một số tổn thương ở phổi
2. Nhận xét về những tai biến của kỹ thuật.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Là 50 BN điều trị nội trú tại khoa Hô hấp – bệnh viện Bạch Mai từ 01/01/2003 đến 31/12/2005 có tổn thương ở phổi: Dạng đám mờ ngoại vi, tổn thương mờ lan tỏa hoặc các tổn thương phổi kẽ nhưng không thấy tổn thương trong lòng phế quản khi nội soi.
2. Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu mô tả.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân
Các BN được khám lâm sàng, ghi kết quả vào bệnh án mẫu và được làm xét nghiệm sau:
– XQ phổi chuẩn thẳng – nghiêng, chụp cắt lớp vi tính nếu điều kiện cho phép, công thức máu, đông máu cơ bản, sinh hoá máu, tìm trực khuẩn kháng cồn kháng toan trong đờm, đo chức năng thông khí.
Loại trừ ra khỏi nghiên cứu những bệnh nhân có rối loạn về đông máu, có trực khuẩn kháng cồn kháng toan trong đờm, chức năng thông khí quá kém (FEV1 < 1lít) hoặc phổi giãn phế nang nhiều ở gần vị trí dự định sinh thiết.
– Trước khi soi phế quản, bệnh nhân được giải thích rõ về mục đích và các nguy cơ, tai biến có thể xẩy ra khi thực hiện kỹ thuật. Hướng dẫn bệnh nhân thực hiện các lệnh của kỹ thuật viên trong quá trình soi.
Kỹ thuật sinh thiết xuyên thành phế quản
Xác định vị trí tổn thương, nơi sẽ tiến hành sinh thiết: Dựa vào phim phổi thẳng – nghiêng và phim chụp cắt lớp vi tính lồng ngực. Sử dụng ống soi và kìm sinh thiết của hãng olympus Nhật Bản, gây tê họng thanh quản bằng xylocain 2%. Kiểm tra ống soi và kìm sinh thiết trước khi bắt đầu soi. Tiến hành soi phế quản, xác định vị trí sinh thiết. Gây tê bổ sung tại chỗ bằng xylocain 2%. Đẩy kìm sinh thiết nhẹ nhàng vào phế quản dưới phân thuỳ vùng định sinh thiết. Khi kìm sinh thiết vướng chạm thì hỏi bệnh nhân xem có đau không (nếu đau bệnh nhân ra hiệu bằng tay).
Nếu không đau, rút kìm ra 2 cm, mở miệng kìm rồi đẩy kìm vào lại tới khi có cảm giác vướng rồi kẹp miệng kìm lại. Hỏi bệnh nhân xem có cảm giác đau khi kẹp kìm không, nếu không đau mới tiếp tục kẹp chặt miệng kìm và kéo kìm ra khỏi ống soi, bệnh phẩm lấy được, cho vào lọ cố định bằng dung dịch formol. Sinh thiết được thực hiện tối thiểu là 3 lần, ngoại trừ những trường hợp có tai biến xẩy ra khi đang sinh thiết, ví dụ như chảy máu nhiều.
Nếu bệnh nhân có đau khi đẩy kìm sinh thiết (nguy cơ làm rách màng phổi lá tạng) thì phải rút kìm sinh thiết ra, rồi đưa kìm sinh thiết vào một phế quản dưới phân thuỳ khác nhưng vẫn ở vùng có tổn thương.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chẩn đoán một số bệnh nhu mô phổi của sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi ống mềm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 50 bệnh nhân điều trị nội trú tại khoa Hô Hấp bệnh viện Bạch Mai. Nghiên cứu tiến cứu mô tả. Kết quả và bàn luận: Kỹ thuật sinh thiết xuyên thành phế quản được thực hiện đối với các tổn thương ở nhu mô phổi, hình ảnh nội soi phế quản bình thường ở 50 bệnh nhân. Hiệu quả chẩn đoán dương tính tới 60%, trong đó lao (28%) và bệnh phổi kẽ (16%) có tỷ lệ được chẩn đoán cao nhất. Tỷ lệ các tai biến là 14%, trong đó có 2 bệnh nhân bị tràn khí màng phổi, nhưng chỉ có một bệnh nhân phải dẫn lưu màng phổi, 5 bệnh nhân có ho máu ít < 5ml/24 giờ và không phải can thiệp. Kết luận: Kỹ thuật đơn giản, an toàn, ít tốn kém, hiệu quả chẩn đoán cao và ít tai biến.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích