Đại dịch toàn cầu HIV/AIDS đã và đang tiếp tục lan rộng, đe dọa tới sự sống còn của toàn nhân loại cũng như để lại gánh nặng lớn về mặt kinh tế và xã hội, trong đó có Việt Nam. Năm 2011, cả nước có tất cả197.335 trường hợp; trong đó có 6.432 bệnh nhân đã chuyển sang AIDS và 2.413 tử vong do AIDS. So sánh số trường hợp được xét nghiệm phát hiện và báo cáo nhiễm HIV năm 2010 và 2011, số trường hợp nhiễm HIV, bệnh nhân AIDS và tử vong do AIDS tiếp tục có xu hướng giảm nhưng không đáng kể. số trường hợp nhiễm HIV được phát hiện giảm liên tiếp trong 4 năm gần đây; tuy nhiên, xu hướng giảm năm 2011 bắt đầu chậm hơn nhiều so với những năm trước đây [1],
Mặc dù dịch HIV ở Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn “dịch tập trung”, tác động chủ yếu tới những nhóm quần thể nguy cơ cao như người nghiện chích ma túy, phụ nữ mại dâm cũng như khách hàng của họ, và những người có hành vi quan hệ tình dục không an toàn với nhóm quần thể nguy cơ cao nhưng hiện nay, HIV đã và đang có xu hướng lây truyền trong nhóm quần thể nguy cơ thấp và có khả năng thay đổi nhanh với những diễn biến phức tạp [2], Tuy vậy, các nghiên cứu/điều tra trước đây thường tiến hành ở nhóm nguy cơ cao như gái mại dâm hay nghiện chích ma túy; do đó, số liệu về hành vi nguy cơ cao ở quần thể thông thường thường rất hiếm.
Thông tin về hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV là những thông tin nhạy cảm. Vì vậy, rất khó thu thập các thông tin có độ tin cậy cao với các phương pháp phỏng vấn thông thường. Để khắc phục phần nào tình trạng này, một trong những phương pháp hiện đại được đưa ra là phỏng vấn với sự trợ giúp của máy tính (Audio Computer Assisted Self Interview – ACASI). Với ACASI, người được phỏng vấn sẽ nhìn thấy câu hỏi hiện ra trên màn hình cá nhân đồng thời họ cũng sẽ nghe được câu hỏi đó qua tai nghe gắn kèm và tự mình nhấn nút trên bàn phím để trả lời theo những hướng dẫn và quy ước của chương trình phần mềm đã được cài đặt sẵn trong máy tính. Kỹ thuật này không chỉ cho phép tăng tính riêng tư của cuộc phỏng vấn mà nhóm nghiên cứu còn có thể tiết kiệm được công sức cũng như hạn chế những sai sót trong nhập liệu. Thực tế, ACASI đã bắt đầu được áp dụng trong một số nghiên cứu/điều tra trên Thế giới và ngay cả tại Việt Nam. Điển hình, nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên của Lê Cự Linh và cộng sự đã cho thấy ưu thế của ACASI so với hai phương pháp phát vấn và phỏng vấn trực tiếp cả về mặt cung cấp thông tin nhạy cảm cũng như vấn đề từ chối tham gia nghiên cứu hay không cung cấp thông tin [3].
Với tất cả những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “thử nghiệm phương pháp điều tra cơ bản về các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm quần thể thông thường” với mục tiêu so sánh hiệu quả thu thập thông tin về hành vi lây nhiễm HIV/ AIDS của 3 phương pháp điều tra: ACASI, phát vấn, và phỏng vấn thông thường.
Bài viết này tập trung tìm hiểu sự khác nhau giữa 3 phương pháp trong việc thu thập các thông tin về hành vi quan hệ tình dục với gái mại dâm ở nam giới và quan hệ tình dục trước hôn nhân.