So sánh ảnh hưởng trên đông máu của dung dịch Stabisol và dung dịch Refortan ở bệnh nhân phẫu thuật chấn thương chỉnh hình chi dưới
Nguy cơ lây nhiễm các loại vi rút nguy hiểm qua đường máu như HBV, HCV, HIV… là một vấn đề lớn khi truyền máu cho bệnh nhân. Do vậy, việc hạn chế tối đa truyền máu bằng sử dụng các dung dịch thay thế là rất cần thiết, đặc biệt là trong giai đoạn phẫu thuật (PT). Cho đến nay, dung dịch HES được sử dụng rộng rãi hơn cả là vì nhiều lý do như: tác dụng kéo dài, ít gây sốc phản vệ hơn… Tuy nhiên, nó cũng có những tác dụng không mong muốn với các mức độ khác nhau tuỳ theo trọng lượng phân tử trung bình, tỷ lệ độ thay thế của dung dịch, liều lượng sử dụng và các yếu tố phối hợp (mất máu nhiều, suy gan – thận)…[7]. Tác dụng phụ của dung dịch HES trên đông máu vẫn đang còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Ở Mỹ, chỉ có duy nhất dung dịch HES có trọng lượng phân tử cao (hetastarch) được sử dụng làm dung dịch để thay thế khối lượng tuần hoàn còn ở châu Âu, có xu hướng sử dụng các loại dung dịch HES có trọng lượng phân tử trung bình (pentastarch) và thấp (tetrastarch) [2, 3, 4]. Ở Việt Nam, mới chỉ có dung dịch pentastarch được nghiên cứu (NC) và sử dụng rộng rãi trên lâm sàng [1], chưa có nghiên cứu nào đánh giá ảnh hưởng của dung dịch hetastarch trên đông máu. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu:
So sánh mức độ ảnh hưởng trên đông máu của dung dịch hetastarch với dung dịch pentastarch ở những bệnh nhân phẫu thuật chấn thương chỉnh hình chi dưới.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân phẫu thuật chấn thương chi dưới theo kế hoạch (mổ phiên) tại khoa phẫu thuật chấn thương chỉnh hình, bệnh viện Việt Đức từ tháng 6/2006 đến tháng 9/2006. Những BN loại trừ khỏi nghiên cứu bao gồm:
* Phẫu thuật cấp cứu, dưới 1 giờ, mất máu nhiều (> 30% thể tích máu).
* Gãy xương hở độ 2 và 3 (theo phân loại của Gustilo), đang có tình trạng sốc chấn thương.
* Bệnh nhân hoặc trong gia đình có tiền sử rối loạn chảy máu và đông máu, có sử dụng các thuốc có ảnh hưởng đến đông máu (như aspirin, heparin, lovenox, kháng vitamin K, corticosteroids..) trước, trong và sau mổ.
* Bệnh nhân nghiện rượu, có bệnh lý gan mật, suy gan – thận, có tiền sử dị ứng với dung dịch HES, có các xét nghiệm về đông máu bất thường trước mổ.
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Can thiệp, ngẫu nhiên, mù đơn và có đối chứng. BN được bắt thăm ngẫu nhiên vào 3 nhóm: nhóm 1 – hetastarch (Stabisol) 450/0,7; Nhóm 2 – pentastarch (Refortan)200/0,5 và nhóm 3 – muối sinh lý (NaCl9‰).
* Tiến hành nghiên cứu: các dung dịch NC được truyền ngay sau khi khởi mê với liều lượng 20ml/kg cho đến khi kết thúc phẫu thuật. Các thông số nhịp tim, bão hoà oxy mao mạch (SpO2), huyết áp tâm thu, tâm trương và trung bình (HATT, HATTr và HATB), áp lực tĩnh mạch trung ương, lượng máu mất được theo dõi trong và sau mổ. Nhiệt độ bệnh nhân được duy trì ≥ 360C, các dung dịch truyền đều được làm ấm bằng máy sưởi.
* Các xét nghiệm đông máu được lấy tại 3 thời điểm: trước khi phẫu thuật (1), sau khi kết thúc phẫu thuật (2) và 24 giờ sau phẫu thuật (3). Đánh giá quá trình đông máu như sau: APTT (activated partial thrombinplastin time); độ tập trung tiểu cầu (TTTC) với ristocetin; định lượng von Willebrand Antigen (vWA); yếu tố VIII. Tất cả các mẫu máu XN được phân tích bằng các máy xét nghiệm tự động Sysmex CA – 1500 series (Japan); Aggre- gometer (USA) và ACL7000 (Italy) tại khoa Huyết học – bệnh viện Việt Đức và khoa Đông máu – Viện huyết học truyền máu TƯ.
3. Xử lí số liệu
Các số liệu nghiên cứu được thu thập và xử lí bằng phần mềm thống kê SPSS 12.0. Giá trị trung bình các chỉ số đông máu trước và sau can thiệp và giữa các nhóm nghiên cứu được so sánh bằng test ANOVA và Wilcoxon. Giá trị p < 0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Mục tiêu: so sánh ảnh hưởng trên đông máu của dung dịch hetastarch (Stabisol 450/0,7) và dung dịch pentastarch (Refortan 200/0,5) ở bệnh nhân (BN) phẫu thuật chấn thương chỉnh hình chi dưới. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp, ngẫu nhiên mù đơn và có đối chứng. BN được chia thành 3 nhóm: Stabisol 450/0,7 (n = 30); Refortan 200/ 0,5 (n = 30) và nhóm chứng NaCl 9‰ (n = 30). Dung dịch nghiên cứu được truyền trong quá trình phẫu thuật với liều lượng 20ml/kg. Các chỉ số huyết động, lượng mất máu trong và sau mổ được theo dõi trong vòng 48h. Các xét nghiệm (XN) đông máu đánh giá ở 3 thời điểm: trước mổ, sau mổ và sau mổ 24h. Kết quả: lượng máu mất sau mổ ở 2 nhóm Stabisol và Refortan không có sự khác biệt. Yếu tố VIII ở nhóm Stabisol giảm nhiều hơn nhóm Refortan và kéo dài hơn (p < 0,05); vWA đều giảm ở nhóm Stabisol và nhóm Rerortan nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: mức độ ảnh hưởng trên đông máu của dung dịch Stabisol ở liều 20ml/kg nhiều hơn và kéo dài hơn so với dung dịch Refortan nhưng chưa gây ra các rối loạn đông máu trên lâm sàng
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích