SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM TẠO NHỊP TIM VĨNH VIỄN THƯỢNG TÂM MẠC VÀ NỘI TÂM MẠC Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I
TÓMTẮT
Đặt vấn đề – mục tiêu nghiên cứu: Tạo nhịp thượng tâm mạc và nội tâm mạc trong điều trị loạn nhịp chậm ở những trẻ em có những khác biệt đáng kể. Nghiên cứu này nhằm so sánh các đặc điểm lâm sàng, chỉ định, kỹ thuật, hiệu quả và biến chứng trong tạo nhịp vĩnh viễn thượng tâm mạc và nội tâm mạc ở trẻ em.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu và hồi cứu. Mô tả hàng loạt ca. Tất cả trẻ đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn thượng tâm mạc và nội tâm mạc tại BV Nhi Đồng I trong 7 năm từ 9/2003 đến 9/2010.
Kết quả nghiên cứu: Trong thời gian nghiên cứu, có 120 bệnh nhân được tạo nhịp, trong đó 32 bệnh nhân thượng tâm mạc và 88 bệnh nhân được tạo nhịp nội tâm mạc. Trẻ được tạo nhịp thượng tâm mạc ở trẻ tuổi nhỏ hơn (1,03 ± 1,5 tuổi so với 8,4 ± 3,7 tuổi; P < 0,001), trọng lượng cơ thể nhỏ hơn (6,2 ± 3,2kg so với 21,7 ± 8,8kg; P < 0,001), diện tích da nhỏ hơn (0,34 ± 0,13 m2 so với 0,84 ± 0,22 m2; P < 0,001), tỷ lệ bị tim bẩm sinh nhiều hơn (50% so với 9,1%; P < 0,001) so với trẻ được tạo nhịp nội tâm mạc. Không có khác biệt đáng kể về’ tần sô’ tim và chức năng tim giữa 2 nhóm. Ngưỡng khử cực của nhóm tạo nhịp nội tâm mạc thấp hơn đáng kể so với thượng tâm mạc ở tại thời điểm tạo nhịp (0,62 ± 0,22 V so với 0,78 ± 0,45 V; p = 0,01), trước 6 tuần (0,88 ± 0,24 V so với 1,47 ± 0,52 V; p < 0,001), sau 6 tuần (0,87 ± 0,24 V so với 1,56 ± 0,59 V; p < 0,001) và sau 3 năm (0,86 ± 0,32 V so với 1,33 ± 0,74V; p < 0,001). Kháng trở ngay lúc đặt máy trong tạo nhịp thượng tâm mạc thấp hơn so với nội tấm mạc (688 ± 186 ũ so với 783 ± 158 ũ; p = 0,007). Không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm về’ ngưỡng nhận cảm và kháng trở ở các thời điểm sau đó. Hở van 3 lá trong tạo nhịp nội tâm mạc ghi nhận cao hơn thượng tâm mạc ở cả giai đoạn sớm (84,1% so với 28,1%; p < 0,001) và muộn (92,2% so với 33%; p < 0,001). Không có sự khác biệt đáng kể về’ tỷ lệ hư dây điện cực và các biến chứng khác giữa 2 nhóm.
Kết luận: Mặc dù ngưỡng khử cực trong tăng đáng kể so với tạo nhịp nội tâm mạc, nhưng tạo nhịp thượng tâm mạc vẫn là 1 phương pháp tạo nhịp hiệu quả và an tòan cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Tạo nhịp vĩnh viễn thượng tâm mạc là 1 phương thức tạo nhịp hợp lý cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đặc biệt dành cho trẻ có bệnh tim bẩm sinh hoặc phẫu thuật tim đi kèm(1). Do vẫn còn những nhược điểm đáng kể như ngưỡng khử cực tăng nhanh, phải phẫu thuật mở ngực… nên tạo nhịp thượng tâm mạc vẫn được xem là 1 phương thức tạo nhịp thay thế’ cho tạo nhịp nội tâm mạc để chờ cho đến khi cơ thể trẻ phát triển đầy đủ thuận lợi cho việc tạo nhịp nội tâm mạc(3). Tạo nhịp vĩnh viễn nội tâm mạc thường có ngưỡng khử cực ổn định hơn, nhưng tạo nhịp nội tâm mạc ở trẻ em cũng có những khó khăn và nguy cơ riêng<6). Khó khăn về mặt kỹ thuật khi tạo nhịp nội tâm mạc cho trẻ nhỏ cũng như các nguy cơ như tắc tĩnh mạch, căng dây điện cực khi cơ thể của trẻ phát triển, huyết khối… là những vấn đề đặc trưng trong tạo nhịp nội tâm mạc ở trẻ em. Do đó, mỗi phương thức tạo nhịp có những ưu và khuyết điểm riêng. Trong nghiên cứu này chúng tôi khảo sát về các đặc điểm lâm sàng, kỹ thuật, biến chứng và hiệu quả của phương thức tạo nhịp thượng tâm mạc ở trẻ em.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất