So sánh hiệu lực điều trị cv8 với artesunate + primaquine, ở bệnh nhân sốt rét do p.falciparum chưa biến chứng tại Bình Thuận và Khánh Hoà, Việt Nam
Artesunate là một dẫn xuất của artemisinine đã được sử dụng điều trị P.falciparum đa kháng thuốc và sốt rét ác tính (SRAT) ở Việt Nam, trên 10 năm, từ 1992 [3]. Đây là loại thuốc có nhu cầu sử dụng rất lớn vì hàng năm ở nước ta có khoảng từ vài trăm đến gần 1 triệu bệnh nhân bị sốt rét. Bệnh nhân tập trung ở các vùng rừng núi, và chủ yếu do ký sinh trùng P.falciparum (trên 70%) . Tuy nhiên nếu dùng artesunate đơn thuần, trong 5 ngày , thì tỷ lệ tái phát gần (R1) cao (từ 15-30%) . Để hạn chế nhược điểm này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thuốc CV8 so với AS trên lâm sàng, để điều trị sốt rét do P.falciparum ngay tại vùng sốt rét lưu hành. CV8 là thuốc do Trung Quốc và Việt Nam
Chợ Rẫy) hợp tác nghiên cứu, thuốc gồm 4 thành phần: Dehydroartemisinine, piperaquine, trimethoprim và primaquine, thời gian điều trị 3 ngày. CV8 đã được nghiên cứu điều trị bệnh nhân sốt rét do P.falciparum từ 8/1993, nhưng có nhiều tác dụng ở đường tiêu hoá [1]. Trong nghiên cứu này , CV8 đã giảm hàm lượng primaquine chỉ còn 1/2 so với năm 1993. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá hiệu lực lâm sàng của thuốc CV8, ở bệnh nhân sốt rét chưa có biến chứng, tại vùng sâu vùng xa của tỉnh Bình Thuận và Khánh Hoà.
2. Mô tả tác dụng phụ của CV8 so với Artesunate+ Primaquine.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian nghiên cứu: Từ 1998 – 2001
Địa điểm : Xã La Dạ- Bình Thuận và xã Khánh Trung-Khánh Hoà
2. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng
Tổng số: 224 bệnh nhân (123 điều trị CV8 và 101 điều trị Artesunate )
Tuổi: từ 3 – 65 tuổi. Có sốt ≥ 37, 50C (cặp nách )
Mật độ KST ở máu ngoại vi , từ 1.000-100.000
KST trên 1ml máu .
Loại trừ bệnh nhân có bệnh cấp tính , mãn tính , mạn tính, phụ nữ có thai, nôn, ỉa chảy hoặc mới dùng các thuốc số rét trong khoảng 1-2 tuần.
Thuốc CV8 và Artesunate (AS ) với phác đồ [2].
3. Phương pháp nghiên cứu
– Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên, mù đơn vào 2 nhóm CV8 và AS .
– Theo dõi: Sốt, KST sốt rét ở máu ngoại vi, và tác dụng phụ vào các ngày (N): N0, N1, N2, N3, N7, N14, N21, N28.
– Đánh giá kết quả theo quy định của Bộ Y Tế Việt Nam và tổ chức Y Tế thế giới (WHO, 1997) [4] với 3 mức độ:
+ Thất bại sớm, sau 3 ngày điều trị vẫn sốt và mật độ KST không giảm.
+ Thất bại muộn, sau điều trị hết sốt và hết KST, nhưng xuất hiện lại KST từ ngày thứ 7 đến 28 ngày (N).
+ Đáp ứng tốt, sau điều trị hết sốt và hết KST trong suốt 28 ngày theo dõi.
Artesunate là một dẫn xuất của artemisine đã được sử dụng điều trị sốt rét (SR) P.falciparum (P.fal) trên 10 năm (từ 1992), nhưng thuốc có tỷ lệ tái phát gần cao (15 – 30%). Mục tiêu: (1) Đánh giá hiệu lực lâm sàng của CV8 trong điều trị bệnh nhân SR do P.fal chưa biến chứng. (2) Mô tả tác dụng phụ của nó. Đối tượng nghiên cứu: 224 Bn SR do P.fal chưa biến chứng chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm CV8 (123 Bn) và AS + Pri (101 Bn). Kết quả: Thuốc CV8 có tỷ lệ tái phát thấp hơn AS + Pri là (3,3% so 17,8%), khác biệt có ý nghĩa với (p < 0,05). Thời gian hết sốt trung bình (22,5 giờ) tương tự như AS (21,8 giờ). CV8 có thể gây buồn nôn (13,8%), nôn (4,9%), nhưng tự khỏi, không đái huyết cầu tố. Kết luận: CV8 có thể điều trị SR do P.falciparum không biến chứng, vì tỷ lệ tái phát gần thấp, thời gian điều trị là 3 ngày.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích