So sánh hiệu quả của thông khí nhân tạo không xâm nhập áp dụng tại khoa cấp cứu đối với ctợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn măn tính và suy hô hấp cấp không phải bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

So sánh hiệu quả của thông khí nhân tạo không xâm nhập áp dụng tại khoa cấp cứu đối với ctợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn măn tính và suy hô hấp cấp không phải bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Tóm tắt: nghiên cứu so sánh hiệu quả của TKNTKXN khi áp dụng tại khoa cấp cứu cho bệnh nhân bị đ0 cấp BPTNMT (n = 15) và bệnh nhân SHHC không phải BPTNMT (n = 19). Kết quả: tỷ lệ thành công (tránh phải đặt NKQ) và thời gian nằm điều trị tại khoa cấp cứu không có sự khác biệt giữa nhóm BPTNMI’ và nhóm không phải BPTNMT (tương ứng lá 93,33% so với 89,47% và 61 giờ so với 52 giờ). Các thông SỐỈPAP, PS và CPAP là tương đương giữa hai nhóm, Đáp ứng lâm sàng và khí máu động mạch không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. Nhóm BPTNMT có tuổi và điểm Apache II cao một cách có ý nghĩa so với nhóm không phải BPTNMT (tương ứng là 70,4 so với 49,9; p <
0.    01.và    21,71 so với 12,4; p < 0,05). Kết luận: TKNTKXN có thể áp dụng hiệu quả cho bệnh nhân SHHC tại khoa cấp cứu. Tỷ lệ thành công của TKNTKXN khi áp dụng cho nhóm BPTNMT có thể cao hơn so với khi áp dụng cho SHHC không phải BPTNMT.
1.    Đặt vấn đề
Thông khí nhân tạo không xâm nhập qua mặt nạ đã được áp dụng ngày càng phổ biến tại các khoa điều trị tích cực cho một số nhóm bệnh nhân suy hô hấp cấp [1]. Trong các nghiên cứu tiến hành tại khoa điều trị tích cực, thông khí nhân tạo không xâm nhập (TKNTKXN) được chứng minh hiệu quả làm giảm tỷ lệ phải đặt nội khí quản (NKQ), giảm tỷ lệ tử vong khi áp dụng cho bệnh nhân suy hô hấp cấp (SHHC): đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT) [2,3], phù phổi cấp [3,4], cơn hen phế quản [2], viêm phổi công đồng [5]—
Các khuyên cáo gần đây đã bắt đầu khuyên áp dụng thông khí nhân tạo không xâm nhập tại các khoa không phải khoa điều trị tích cực [1,2]. Thực tế thông khí nhân tạo không xâm nhập cũng đă bắt đầu được áp dụng tương đối phổ biến tại các khoa cấp cứu hoặc các khoa không phải khoa điều trị tích cực [1-4]. Tuy nhiên trên thực tế, đặc điểm các khoa cấp cứu và các khoa khác có nhiều điểm khác biệt so với khoa điều trị tích cực. Do vậy, kết quả khả quan của các nghiên cứu tiến hành tại các khoa điều tri tích cực cũng chưa đảm bảo sẽ có kết quả tương tự khi áp dụng thông khí nhân tạo không xâm nhập tại các khoa không phải khoa điều trị tích cực như khoa hô hấp, khoa nội chung, khoa cấp cứu… [2]. Trong sô’ các nghiên cứu về thông khí nhân tạo không xâm nhập đa được công bố, không có nhiều các nghiên cứu được tiến hành tại khoa cấp cứu và kết quả của các nghiên cứu này cũng không hoàn toàn thống nhất. Đa số các nghiên cứu tiến hành tại các khoa cấp cứu và khoa hô hấp cho thấy thông khí nhân tạo không xâm nhập có hiệu quả ở một số nhóm bệnh nhân suy hô hấp cấp, đặc biệt là đợt-cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và phù phổi cấp [6,7,8]
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả của thông khí nhân tạo không xâm nhập khi áp dụng tại khoa cấp cứu cho bệnh nhàn đợt cấp BPTNMT và bệnh nhân SHHC không phải BPTNMT
2.    Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1.    Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân suy hô hấp cấp mức độ trung bình và nặng vào khoa cấp cứu, được áp dụng TKNTKXN.
Tiêu chuẩn loại trừ: các bệnh nhân có một hoặc nhiều tiêu chuẩn sau đây sẽ bị loại ra khỏi nghiên cứu:
a.    SHHC đáp ứng nhanh chóng với thở oxy qua xông mũi hoặc kính mũi.
b.    Có chống chỉ định TKNTKXN (ngừng thò hoặc ngừng tim; bệnh lý não nặng, glasgovv < 10 điểm; chảy máu tiêu hóa cao nặng; huyết đông khồng ổn định hoặc rối loạn nhịp tim với tình trạng lâm sàng không ổn định; phẫu thuật, chấn thương, biến dạng mặt; tắc nghẽn đường hô hấp trên; không hợp tác/mất khả năng bảo vệ đường thở; mất khả năng ho khạc đờm; nguy cơ cao hít vào phổi)
c.    Tràn khí màng phổi chưa được dẫn lưu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1.    Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, so sánh
Tất cả bệnh nhân nghiên cứu đều được áp dụng thông khí nhân tạo không xâm nhập theo quy trình thống nhất. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm theo chẩn đoán nguyên nhân gây suy hô hấp: nhóm bị đợt cấp BPTNMT và nhóm SHHC không phải BPTNMT
2.2.2.    Thu thập số liệu
Đặc điểm chung của bệnh nhân: tuổi, giới, bệnh lý nền, bệnh lý nguyên nhân gây suy hô hấp, Apache II
Thông số diễn biến lăm sàng và khí máu động mạch
Glasgovv, M, HA, nhịp thở, Sp02. Thời điểm đánh giá: bắt đầu nghiên cứu, 30phút, 2 h, 4 h, 8 h, 12 h, 24h sau đó mỗi 24h đến khi kết thúc
Khí máu động mạch: thời điểm đánh giá: bắt đầu nghiên cứu, 30phút – lh, 4 – 6h, 24h sau đó mỗi 24h đến khi kết thúc
Các kết quả điều trị
Tỷ lệ tránh đặt NKQ/tỷ lệ phải đặt NKQ (nhóm phải đặt NKQ được coi là thất bại), tỷ lệ tử vong.
Thời gian nằm viện, thời gian nằm tại khoa cấp cứu.
Các biến chứng, mức độ hợp tác của bệnh nhân với TKNTKXN.
2.2.3.    Phân tích số liệu: chúng tồi sử dụng phần mềm SPSS 15.0. Các biến danh mục, biến nhị phân được xử lý bằng test %2, test Fisher dành cho các số liệu < 5. Các biến liên tục được xử lý bằng test T- student. Chúng tôi so sánh giữa nhóm BPTNMT và nhóm bệnh nhân không phải BPTNMT về kết quả điều trị cuối cùng và các biến chứng.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment