So sánh hiệu quả điều chỉnh ph dịch dạ dày của ranitidine liều 200mg với 100mg tiêm tĩnh mạch tr ước mổ ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu bụng

So sánh hiệu quả điều chỉnh ph dịch dạ dày của ranitidine liều 200mg với 100mg tiêm tĩnh mạch tr ước mổ ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu bụng

Nghiên cứu được thực hiện nhằm s sánh hiệu quả giữa ranitidine liều 200mg và 100mg tiêm tĩnh mạch trước mổ trên pH dịch dạ dày ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu bụng và đánh giá tác dụng không mong muốn của ranitidine. K ết quả: pH dịch dạ dày sau tiêm thuốc 1 đến 10 giờ của nhóm 200mg cao hơn nhóm 100mg có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 và p < 0,05, tỷ lệ bệnh nhân có pH < 2,5 sau tiêm thuốc từ 1 đến 10 giờ của nhóm 200mg đều thấp hơn nhóm 100mg (p < 0,05). 4/90 bệnh nhân sau tiêm ranitidine có biểu hiện chóng mặt, buồn nôn hoặc đau nơi tiêm nhẹ, thoáng qua. Kết luận: Ranitidine liều 200 mg tiêm tĩnh mạch trước mổ làm tăng pH dịch dạ dày và làm giảm tỷ lệ bệnh nhân có pH < 2,5 nhiều hơn đáng kể so với liều 100mg. Các tác dụng không mong muốn của thuốc là không đáng kể.

Trào ngược vào phổi là một trong những biến chứng nguy hiểm của gây mê toàn thân. Ranitidine là một thuốc kháng histamin – 2 đã được FDA khuyến cáo dùng dự phòng trào ngược cho bệnh nhân có “nguy cơ” cần gây mê
Điều này chưa thật sự thích hợp với gây mê cấp cứu khi mà cuộc mổ cần được tiến hành càng sớm càng tốt. Theo khuyến cáo có thể tăng liều ranitidine đến 200mg tiêm tĩnh mạch trong cấp cứu [6]. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: So sánh hiệu quả giữa ranitidine liều 200mg và 100mg tiêm tĩnh mạch trước mổ trên pH dịch dạ dày ở bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu bụng, đánh giá tác dụng không mong muốn của các liều ranitine nói trên.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Có chỉ
định phẫu thuật bụng cấp cứu, không có tiền sử bệnh lý dạ dày-tá tràng, không sử dụng các thuốc ảnh hưởng đến thể tích và pH dịch dạ dày, không có chống chỉ định hoặc tiền sử dị ứng ranitidine, > 15 tuổi, chưa được phẫu thuật ở nơi khác, đồng ý nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân sốc, không hợp tác, không hút được dịch dạ dày, sonde dạ dày không đúng vị trí, dồn dịch từ ruột lên dạ dày trong lúc mổ, không thu thập đủ số liệu, thông tin không rõ ràng.
2.    Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp mù đơn có đối chứng, được tiến hành tại khoa Khám bệnh cấp cứu và phòng mổ cấp cứu bệnh viện Việt Đức từ tháng 3/2009 đến tháng 9/2009.
Tiến hành nghiên cứu: Sau khi bệnh nhân được lựa chọn vào nghiên cứu tại phòng khám cấp cứu:
–    Gây tê hầu họng bằng Xylocaine 20% dạng xịt.
–    Đặt sonde dạ dày loại 2 nòng (Salem- Sump) số 14 -18 qua mũi.
–    Tiến hành hút dịch dạ dày qua sonde và đo pH dịch dạ dày lần 1 trước khi sử dụng ranitidine.
–    Tiêm ranitidine (Zantac) tĩnh mạch: Nhóm 1: Dùng một liều ranitidine 100mg. Nhóm 2: Dùng một liều ranitidine 200mg. Tất cả đều pha trong NaCl 0,9% vừa đủ 20ml tiêm tĩnh mạch chậm trong 5 phút.
Theo dõi một số tác dụng phụ: Cảm giác chóng mặt, buồn nôn, nóng, đau,…
–    Khởi mê nhanh có Sellick để đặt nội khí quản.
–    Sau khi mở thành bụng, yêu cầu phẫu thuật viên xác định chắc chắn có sonde trong dạ dày, trường hợp ngược lại loại bệnh nhân khỏi nghiên cứu.
–    Tiếp tục lấy mẫu rồi đo pH dịch dạ dày tại các thời điểm 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ, 6 giờ, 10 giờ sau tiêm thuốc.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 15.0. Các test được sử dụng: test t-student, test t ghép cặp, test c2. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0.05.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment