So sánh hiệu quả điều trị giữa hai phác đồ stavudine+lamivudine+nevirapine và zidovudine+lamivudine+nevirapine ở bệnh nhân mắc aids
SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ GIỮA HAI PHÁC ĐỒ STAVUDINE+LAMIVUDINE+NEVIRAPINE VÀ ZIDOVUDINE+LAMIVUDINE+NEVIRAPINE Ở BỆNH NHÂN MẮC AIDS.Một nghiên cứu đoàn hệ được thực hiện tại phòng khám ngọai trú khoa Lao Bệnh viện Đa khoa An Giang, trong thời gian từ tháng 07/2009 đến 07/2010, 100 bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS được điều trị bằng phác đồ D4T+3TC+NVP/EFV(nhóm 1) và
92 bệnh nhân điều trị bằng phác đồ AZT+3TC+NV/EFV(nhóm 2). Kết quả theo dõi trong 48 tuần điều trị, tác giả nhận thấy tỉ lệ tử vong của bệnh nhân nhóm 2 là 5.4% (5/92 bệnh nhân) với thời gian sống trung bình là 45.5 tháng (KTC 95%: 43.4-47)
thấp hơn tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân nhóm 1 có tỉ lệ tử vong là 19% (19/100 bệnh nhân) với thời gian sống trung bình là 40.2 tháng (KTC 95%: 37,0- 43.3) ( log rank p = 0.029) . Sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu (Giai đọan lâm sàng, số lượng tế
bào CD4, cân nặng, trị số hemoglobin) thì tỉ lệ tử vong giữa 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (HR=1.5 (KTC 95%:0.48-4.6; p=0,46). Tác dụng phụ hay gặp của phác đồ d4T + 3TC + NVP là dị ứng thuốc (13%), rối loạn tiêu hóa (6%), tê
bì đơn thuần (3%). Tác dụng phụ hay gặp của phác đồ AZT + 3TC + NVP là thiếu máu (3.6%), rối loạn tiêu hóa (5,4%) và dị ứng thuốc (5.4%). Thời gian trung bình xuất hiện dị ứng thuốc là 10 ngày, thiếu máu là 24 tuần, tê bì là 40 tuần
Kết luận:Cả 2 phác đồ đều có hiệu quả điều tri như nhau, phác đồ có AZT thường gây thiếu máu, trong khi phác đồ có d4T hay gây rối loạn thần kinh
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất