So sánh hiệu qủa điều trị nhồi máu não bằng phương pháp xoa bóp-vận động hỗ trợ điện châm với xoa bóp-vận động đơn thuần theo Y học co truyền.

So sánh hiệu qủa điều trị nhồi máu não bằng phương pháp xoa bóp-vận động hỗ trợ điện châm với xoa bóp-vận động đơn thuần theo Y học co truyền.

So sánh Phương pháp xoa bóp-vận động hỗ trợ điên châm với xoa bóp-vận động đơn thuần phục hổi chức năng vận động bênh nhân nhồi máu não có hiệu quả tốt, được đánh giá dựa trên tiến triển độ liệt của thang điểm Rankin:
–    Số bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp xoa bóp-vận động, hỗ trợ điện châm có độ liệt Rankin tiến triển từ độ IV xuống độ I, II là 93,47%, độ III là 8,7%. Thật sự có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001.
–    Số bệnh nhân được phục hồi chức năng theo phương pháp xoa bóp-vận động Y học cổ truyền đạt được hiệu quả tốt và khá là 83,34%, độ III là 12,5%với P < 0,01.
I.    ĐẶT VẤN ĐỂ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là một nguyên nhân gây tử vong và tàn tật phổ biến khắp nơi trên Thế giới. Theo Mac Donal và cộng sự (2000), cho biết: trung bình mỗi năm có 200 trường hợp mới xẩy ra đối với 100.000 người dân và ước tính có tới năm triệu người tử vong mỗi năm[3]. Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG)(1989), đã thông báo: nhìn chung tỷ lệ tử vong do TBMMN đứng hàng thứ ba sau bệnh Tim và bệnh ung thư, đứng hàng thứ nhất trong các bệnh lý Thần kinh[3].
Ở Việt Nam và trên Thế giới đã có nhiều phương pháp điều trị phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân nhồi máu não như: vật lý trị liệu, xoa bóp bấm huyệt, châm cứu…đã có hiệu quả tốt, nhưng cho đến nay, những nghiên cứu về hiệu quả giữa phương pháp xoa bóp-vận động và điện châm so với xoa bóp-vận động Y học cổ truyền (YHCT) cho bệnh nhân nhồi máu não còn rất ít và chưa toàn diện. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:
So sánh hiệu qủa điều trị nhồi máu não bằng phương pháp xoa bóp-vận động hỗ trợ điện châm với xoa bóp-vận động đơn thuần theo Y học co truyền.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1.    Tiêu chuẩn chọn bênh nhân: Các bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu này phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: Bệnh nhân bị nhồi máu não lần thứ nhất và có chẩn đoán xác định là nhồi máu não dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ chức Y tế thế giới (1989)(có hình ảnh tổn thương giảm tỷ trọng trên phim chụp cắt lớp vi tính não)(1). Bệnh đã được điều trị giai đoạn cấp tại Bệnh viện Đại học Y khoa Huế hoặc Bênh viên Trung ương Quân đội 108. Các bênh nhân nói trên đều đã được điều trị ổn định các chức năng thần kinh, tim mạch, hô hấp sau tai biến, trước khi bắt đầu thực hiên các phương pháp xoa bóp – vận động. Chỉ chọn các bênh nhân bị rối loạn vận động (liêt nửa người) còn nếu các rối loạn khác như: rối loạn ngôn ngữ, cảm giác thị giác, nhận thức thì chỉ chọn ở mức độ nhẹ, bênh nhân vẫn giao tiếp, hợp tác với người tập. Các bênh nhân tự nguyên tham gia điều trị bằng phương pháp nghiên cứu này.
2.2.    Tiêu    chuẩn loại trừ: Chúng tôi loại khỏi nghiên cứu này những bênh nhân sau: Nhồi máu não từ lần thứ 2 trở lên. Bênh nhân bị liêt nửa người do các bênh khác: bênh tim mạch, chấn thương sọ não, viêm não màng não, u não, di chứng bại não… Các bênh nhân có kèm viêm loét dạ dày-tá tràng, hội chứng thận hư, đái tháo đường, Phụ nữ có thai. Các bênh nhân bỏ cuộc hoặc không tuân thủ theo đúng quy trình điều trị.
2.3.    Tiêu    chuẩn chẩn đoán theo Y học cổ truyền: Về phương diên Y học cổ truyền, liêt nửa người do nhồi máu não được nhiều nhà nghiên cứu lâm sàng quan niêm là chứng bán thân bất toại, dựa theo tứ chẩn (vọng, văn, vấn, thiết)[4].
2.4 Phương pháp nghiên cứu
2.4.1.    Chia nhóm nghiên cứu: Nghiên cứu trên 94 đối tượng về chẩn đoán: liêt nửa người do nhồi máu não nằm điều trị tại: Bênh viên Đại học Y khoa Huế và Bênh viên Trung ương Quân đội 108 (như phần tuyển chọn bênh nhân). Tất cả 94 đối tượng được chia thành 2 nhóm: Nhóm A (46 bênh nhân): phục hồi chức năng bằng phương pháp xoa bóp – vận động Y học cổ truyền. Nhóm B (48 bênh nhân) làm nhóm chứng: được phục hồi chức năng bằng phương pháp xoa bóp – vận động đơn thuần. Không được phục hồi chức năng bằng phương pháp xoa bóp – vận động Y học cổ truyền.
2.4.2.    Phương pháp điều tri:
2.4.2.1.    Phương pháp xoa bóp-vận đông Y học cổ truyền: Theo bài tập của Khoa Y học cổ truyền
–    Đại học Y Hà Nội. Cụ thể gồm các phần sau: thực hiên đối với những bênh nhân có huyết áp đã ổn định nhưng chưa vận động tự chủ. Người thầy thuốc áp dụng phương pháp xoa bóp vận động thụ động cho bênh nhân và bấm huyêt. -Chi trên: Bên liêt thực hiên các thủ thuật: xoa, xát, day, lăn, bóp, vê – vận động khớp từ gốc chi đến các kẽ bàn-ngón tay sau đó bấm các huyêt: Kiên ngung, Khúc trì, Thủ tam lí, Ngoại quan, Bát tà, Hợp cốc. Chi dưới: Bên liêt thực hiên các thủ thuật: xoa, day, lăn, bóp từ gốc chi đến bàn ngón chân. Sau đó day bấm huyêt: Phong thị, Huyết hải, Phong long, Túc tam lý, Giải khê, Tam âm giao,, Bát phong, kết hợp vận động khớp háng , gối, cổ chân, và vê các khớp ngón chân[4].
*Quy trình xoa bóp-vận đông: Làm cho bênh nhân một lần mỗi ngày vào buổi sáng, thời gian: 30 phút/lần. Một liêu trình điều trị là 20 ngày.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment