So sánh hiệu quả dự phòng và điều trị buồn nôn, nôn sau mổ nội soi phụ khoa của ondansetron với dexamethason

So sánh hiệu quả dự phòng và điều trị buồn nôn, nôn sau mổ nội soi phụ khoa của ondansetron với dexamethason

Buồn nôn và nôn sau mổ (BNNSM) có tỷ lệ đặc biệt cao đối với phẫu thuật nội soi phụ khoa và gây ảnh hưởng xấu đến quá trình hồi phục. Đề tài được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả dự phòng buồn nôn và nôn của ondansetron với của dexamethason sau mổ nội soi phụ khoa và đánh giá hiệu quả điều trị buồn nôn và nôn sau mổ nội soi phụ khoa của hai thuốc trên. Kết quả cho thấy tỷ lệ buồn nôn và nôn sau mổ ở nhóm ondansetron là 34% và nhóm dexamethason là 30% (p > 0,05). Tỷ lệ điều trị thành công ở lần 1 và lần 2 của nhóm ondansetron đều cao hơn nhóm dexamethason, lần lượt là 71,4% và 54,5% so với 16,7% và 25% (p < 0,05). Từ đó có thể kết luận, so với dexamethason, ondansetron có hiệu quả dự phòng buồn nôn và nôn sau mổ tương tự nhưng có hiệu quả điều trị tốt hơn rõ rệt.

Buồn nôn và nôn sau mổ (BNNSM) làm cho bệnh nhân khó chịu và gây rối loạn thực thể làm ảnh hưởng xấu đến quá trình hồi phục
sau mổ [3,10]. Tỷ lệ buồn nôn và nôn sau mổ nội soi ở phụ khoa khá cao với lý do chưa rõ.
Chất trung gian hóa học đồng vận dẫn truyền cảm giác nôn tại vùng nhận cảm hóa
học CTZ ở sàn não thất IV tới trung tâm nôn ở hành não đã cắt nghĩa phần nào cơ chế tác dụng phòng nôn của dexamethason, ondansetron mà một số tác giả trên thế giới đã sử dụng. Ở nước ta, có một số nghiên cứu về BNNSM trong mổ tuyến giáp, cắt amidan, mổ nội soi ổ bụng nhưng chưa có nghiên cứu nào về dự phòng và điều trị buồn nôn và nôn sau mổ nội soi ổ bụng ở phụ khoa bằng ondansetron hoặc bằng dexamethason. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hai mục tiêu :
So sánh hiệu quả dự phòng buôn nôn và nôn của ondansetron với của dexamethason sau mổ nội soi bụng phụ khoa.
Đánh giá tác dụng điều trị buồn nôn và nôn sau mổ của các thuốc trên ở các bệnh nhân này.
II.    ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
Tiêu chuẩn chọn: các bệnh nhân tuổi từ 16 trở lên, ASA l-ll, có chỉ định mổ nội soi ổ bụng vì bệnh phụ khoa theo chương trình, được gây mê nội khí quản, không dùng thuốc chống nôn trước mổ.
Tiêu chuẩn loại trừ: buồn nôn và nôn trước mổ, tắc ruột, bệnh lý thần kinh kèm theo (u não, chấn thương sọ não,….), tiểu đường chưa được kiểm soát, tăng urê máu, hoặc đang điều trị ung thư bằng hóa chất, đang cho con bú, chống chỉ định sử dụng thuốc ondansetron hoặc dexamethason (quá mẫn với một trong hai thuốc trên, xuất huyết hoặc loét tiêu hóa), từ chối tham gia vào nghiên cứu.
2.    Phương pháp
2.1.    Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện ở khoa Gây mê Hồi sức và buồng bệnh bệnh viện Phụ sản Trung ương trong thời gian từ 1/2011 đến 8/2011.
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng và mù đơn: 100 BN được rút thăm ngẫu nhiên chia làm 2 nhóm với mỗi nhóm 50 BN, nhóm o nhận 4 mg ondansetron và nhóm D nhận 8 mg dexamethason tiêm tĩnh mạch trước khởi mê 5 phút. Các BN đều được tiền mê midazolam tĩnh mạch 0,03 mg/kg 10 phút trước khởi mê và được gây mê nội khí quản bằng propoíol 2 mg/kg/phút, rocuronium 0,06 và íentanyl 2 mcg/kg, sau đó duy trì mê bằng isoíluran 0,8 – 1 MAC cùng các liều bổ sung rocuronium và íentanyl khi cần trong cuộc mổ như thường qui. Thông khí được điều chỉnh để duy trì EtC02 35 – 40 mmHg. Paracetamol 1 g/ lần truyền tĩnh mạch trong 10 phút trước khi đóng xong da và nhắc lại 1 g cứ 6 giờ. Bệnh nhân được rút nội khí quản khi đủ tiêu chuẩn và lưu lại phòng hồi tỉnh tối thiểu 2 giờ sau mổ rồi chuyển buồng bệnh. Nếu có BNNSM mà bệnh nhân yêu cầu, điều trị lần 1 được tiến hành bằng tiêm tĩnh mạch 4 mg ondansetron cho nhóm o và 8 mg dexamethason cho nhóm D. Nếu thất bại, bệnh nhân được điều trị tiếp lần 2 bằng tiêm tĩnh mạch 8 mg dexamethason cho nhóm o và 4 mg ondansetron cho nhóm D.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment