SO SÁNH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT NỘI SOI QUA ĐƯỜNG HẦM KEHR VÀ QUA NGÕ VÀO ĐƯỜNG MẬT BẰNG TÚI MẬT TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI SÓT ĐƯỜNG MẬT
SO SÁNH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT NỘI SOI QUA ĐƯỜNG HẦM KEHR VÀ QUA NGÕ VÀO ĐƯỜNG MẬT BẰNG TÚI MẬT TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI SÓT ĐƯỜNG MẬT
Võ Văn Hùng*, Nguyễn Cao Cương*, Bùi Mạnh Côn*, Võ Thiện Lai*, Nguyễn Hải Đăng*
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Sỏi đường mật là bệnh lý phổ biến, tỉ lệ sỏi sót cao, có nhiều kỹ thuật nội soi điều trị sỏi sót đường mật.
Mục tiêu: so sánh xác định hiệu quả so sánh hiệu quả kỹ thuật nội soi qua đường hầm kehr và đường hầm ống mật chủ – túi mật – da trong điều trị sỏi sót đường mật.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu.
Kết quả: từ tháng 01/2008 đến 12/2012 chúng tôi nghiên cứu 70 trường hợp sỏi sót bao gồm 2 nhóm: 35 trường hợp sỏi sót lấy từ 47 TH sau mổ mở ống mật chủ lấy sỏi có kết hợp tạo ngõ vào đường mật bằng túi mật (nhóm A), 35 trường hợp sỏi sót lấy ngẫu nhiên từ 194 TH sau mổ mở ống mật chủ lấy sỏi dẫn lưu Kehr (nhóm B). Tuổi trung bình 48,36 ± 15,70; Tỉ lệ nam/nữ 1/2,5. Tất cả bệnh nhân bị sỏi sót trong gan trong đó có 41,4% kết hợp sỏi ngoài gan. Tỉ lệ hẹp đường mật nhóm A và nhóm B là 45,7% và 17,1%, tương ứng. Tỉ lệ nội soi vào đường mật 100%, thời gian lấy sỏi trung bình tương đương trên 2 nhóm. Tỉ lệ hết sỏi của 2 nhóm đều là 85,7%. Nguyên nhân không hết sỏi là do hẹp đường mật trong gan và sỏi ngoại vi. Tỉ lệ tai biến trong khi nội soi của 2 nhóm là: 5,7% (nhóm A) và 14,3% (nhóm B). Tỉ lệ biến chứng sau khi nội soi của 2 nhóm là: 17,1% (nhóm A) và 20,0% (nhóm B).
Kết luận: kỹ thuật nội soi lấy sỏi sót qua ngõ vào đường mật bằng túi mật an toàn và hiệu quả tương đương với nội soi lấy sỏi sót qua đường hầm Kehr.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất