SO SÁNH HIỆU QUẢ ỔN ĐỊNH HUYẾT ÁP CỦA TRUYỀN DỊCH TRƯỚC VÀ TRONG KHI LÀM THỦ THUẬT GÂY TÊ TUỶ SỐNG
Nghiên cứu lâm sàng, ngẫu nhiên, đối chứng, mù đơn 90 bệnh nhân (BN) người lớn, chia thành 3 nhóm, đều được gây tê tuỷ sống (GTTS) liều > 6 marcain 0,5% để mổ thận và niệu quản. Nhóm I: truyền NaCl 0,9% 20 ml/kg/20 phút trước GTTS; nhóm II: truyền 7 ml/kg voluven 0,6% trước GTTS; nhóm III: truyền NaCl 0,9% 20 ml/kg trong GTTS. Kết quả: nhóm II có huyết áp (HA) (tâm thu, trung bình) ổn định nhất. Tỷ lệ tụt HA đều cao ở nhóm I và nhóm II (80% và 60%, p < 0,05). Ở nhóm II, tỷ lệ tụt HA thấp nhất (0%, p < 0,05), mặc dù lượng dịch truyền và ephedrin ít nhất (p < 0,05). Gây tê tuỷ sống thường được áp dụng
cho nhiều phẫu thuật nhưng có nguy cơ gây tụt HA, có thể dẫn đến ngừng tim. Cơ chế tụt HA là do phong bế hạch giao cảm cạnh cột sống dẫn đến giãn mạch, gây thiếu thể tích tuần hoàn. Truyền dịch tinh thể (500 ml ringer lactate hoặc NaCl 0,9%) trước GTTS được coi là biện pháp dự phòng tụt HA. Tuy nhiên, nghiên cứu của Rout và CS [8] cho thấy: tỷ lệ tụt HA không khác nhau có ý nghĩa thống kê, dù truyền hay không truyền dich tinh thể (20 ml/kg trong 10 phút) trước GTTS (55% so với 71%, p > 0,05). Tốc độ truyền dịch tinh thể nhanh (10 phút) và chậm hơn (20 phút) không làm thay đổi tỷ lệ tụt HA. Một số tác
giả cho rằng, dịch tinh thể đã giảm tác dụng duy trì thể tích tuần hoàn trong và sau GTTS nên chủ trương truyền dịch keo tuỷ sống > 6 mg với mục tiêu so sánh hiệu quả duy trì HA của 3 biện pháp: truyền dịch tinh thể NaCl 0,9% trước GTTS, truyền dịch keo voluven 6% trước GTTS và truyền NaCl 0,9% trong GTTS.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất