SO SÁNH HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA GÂY MÊ PROPOFOL CÓ VÀ KHÔNG CÓ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO CÁC CAN THIỆP TIẾT NIỆU NGOẠI TRÚ

SO SÁNH HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA GÂY MÊ PROPOFOL CÓ VÀ KHÔNG CÓ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO CÁC CAN THIỆP TIẾT NIỆU NGOẠI TRÚ

SO SÁNH HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA GÂY MÊ PROPOFOL CÓ VÀ KHÔNG CÓ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO CÁC CAN THIỆP TIẾT NIỆU NGOẠI TRÚ

Tạ Đức Luận*, Nguyễn Thị Quý**
TÓM TẮT :
Mục đích nghiên cứu: So sánh hiệu quả và tính an toàn của gây mê propofol có và không có KSNĐĐ cho các can thiệp tiết niệu ngoại trú.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả lâm sàng có đối chứng. Từ tháng 2 đến tháng 12/2012, tại khoa PT-GMHS BVĐHYD TP. HCM, 130 BN ASA I/II được lựa chọn cho can thiệp tiết niệu về trong ngày, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I (65BN) gây mê tĩnh mạch với propofol KSNĐĐ. Nhóm II (65BN) gây mê propofol bằng bơm điện thông thường. Cả 2 nhóm đều thông khí MTQ, không dùng dãn cơ. Nhóm I: ghi nhận nồng độ đích tại các thời điểm. Cả 2 nhóm: thời gian mất tri giác, thời gian đủ ĐK đặt MTQ, thời gian hồi tỉnh, thời gian nằm HT (PACU stay), diễn biến của sinh hiệu và cách xử trí. Trong mổ đánh giá độ mê bằng thang điểm PRST, sự hài lòng của PTV bằng thang điểm VAS (tính ngược). Tại PHT đánh giá độ an thần của BN bằng thang điểm OAA/S. Ghi nhận các tai biến của MTQ và các tai biến khác ở HP.

Kết quả: Nồng độ đích (mcg/ml) TB lúc mất tri giác: 1,3±0,31 (0,6-2,0); đặt MTQ: 3,64 ± 0,35 (2,6-4); trong can thiệp: 3,87 ± 0,37 (3-5); khi HT: 1,18 ± 0,31(0,4-2,6).Thời gian mất tri giác (giây) của nhóm I là 46,02±7,71 so với nhóm II là 39,82±6,73 (p<0,001); TG đủ ĐK đặt MTQ (phút) của nhóm I là 4,44±0,72 so với nhóm II là 3,95±0,82 (p<0,001); TGHT (phút) của nhóm I là 13,95±5,20 so với nhóm II là 17,51±8,33 (p<0,005); TG nằm HT (phút) của nhóm I là 38,74±11,44 so với nhóm II là 44,97±10,32 (p=0,001); điểm OAA/S khi về HT của nhóm I là 4,40±0,68 so với nhóm II là 4,17±0,63 (p<0,05); số ca không qua PHT của nhóm I là 17 so với nhóm II là 8 (p<0,05); số ca XV trong 6 giờ đầu của nhóm I là 21 so với nhóm II là 11 (p< 0,05). Số ca phải sử dụng ephedrine của nhóm I là 4 so với nhóm II là 12 (p<0,05). Điểm PRST trong mổ, sự hài lòng PT và BN, các thông số liên quan MTQ, tổng liều propofol và fentanyl không có sự khác biệt.
Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch propofol KSNĐĐ với thông khí MTQ có nhiều ưu điểm so với không KSNĐĐ, có thể áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả và an toàn cao.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment