SO SÁNH KẾT QUẢ BÀI TẬP EPLEY SỬA ĐỔI VÀ BÀI TẬP BRANDT – DAROFF Ở BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT

SO SÁNH KẾT QUẢ BÀI TẬP EPLEY SỬA ĐỔI VÀ BÀI TẬP BRANDT – DAROFF Ở BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT

 SO SÁNH KẾT QUẢ BÀI TẬP EPLEY SỬA ĐỔI VÀ BÀI TẬP BRANDT – DAROFF Ở BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT TƯ THẾ KỊCH PHÁT LÀNH TÍNH ỐNG BÁN KHUYÊN SAU

Chóng mặt tư thế kịch phát lành tính (CMTTKPLT) ống bán khuyên sau do sỏi tai bị đẩy ra ngoài hệ thống soan nang và cầu nang và di chuyển trong ống bán khuyên sau khi thay đổi vị trí đầu. Hậu quả dòng chảy nội dịch hoạt hoá thụ thể các tế bào lông gây cơn chóng mặt ngắn, thoáng qua và giật nhãn cầu xoay đánh lên. Người đầu tiên mô tả là Bar any vào năm 1921. Đến năm 1952 Dix và Hallpike mô tả đặc điểm cơ bản của chóng mặt tư thế lành tính: giật nhãn cầu xoay tuỳ thuộc tai bệnh, xuất hiện sau thời gian ngắn và giảm khi thực hiện lập lại. Theo 2 tác giả Dix và Hallpike chẩn đoán dựa vào bệnh sử, cơn chóng mặt tư thế chỉ vài giây với dấu thực thể giật nhãn cầu xoay xuất hiện chậm hơn và giảm đi khi thực hiện test Dix- Hallpike. Cơ chế bệnh sinh theo giả thuyết củ của Schuknecht do những mảnh vỡ dính vào đài tai gây CMTTKPLT(6), các giả thuyết sau này quy cho mảnh vụn của sỏi rơi vào ống bán khuyên sau. Mặc dù ghi nhận sự tích tụ basophile ở đài tai ống bán khuyên sau bệnh nhân CMTTKPLT, gần đây điều trị phẫu thuật cho các trường hợp CMTTKPLT do tắc ống bán khuyên sau kháng trị cho thấy có các mảnh vỡ trôi tự do trong ống bán khuyên. Trước khi giả thuyết sỏi tai được công nhận như nguyên nhân gây CMTTKPLT, Brandt và Daroff đã đề xuất bài tập phục hồi chức năng tiền đình<2), bài tập được thiết kế nhằm gia tăng bù trừ trung ương nhiều hơn là sự thay đổi bất thường các xung động đi vào từ ngọai biên. Năm 1992 Epley đề nghị một lọat thao tác thay đổi xoay đầu nhẹ nhàng tạo trọng lực làm chuyển động sỏi tai từ ống bán khuyên vào hệ thống soan nang(tái đinh vị sỏi tai). Trong thực hành giả thuyết sỏi ống bán khuyên được chứng minh thông qua hiệu quả các bài tập tái đĩnh vị sỏi tai, mục đích làm sạch các mảnh vụn sỏi tai ở ống bán khuyên. Các nghiên cứu có đối chứng cho thấy các thao tác Epley hay Semont khi thực hiện một lần giảm chóng mặt từ 70 đến 90% bệnh nhân. Tuy nhiên chỉ thực hiện an toàn khi có bác sĩ và một số trường hợp đòi hỏi phải lập lại cho đến khi khỏi chóng mặt tư thế, do đó bổ sung các bài tự tập là một giải pháp chọn lựa hợp lý. Nghiên cứu tiền cứu cho thấy thao tác Epley và Semont hiệu quả trong 1 tuần theo dõi hơn bài tập Brandt-Daroff (BDE). Bài tập Epley sửa đổi (MEP) gần đây được đề nghị dùng tự tập trong điều trị CMTTKPLT, có hiệu quả hơn BDE sau 1 tuần tự tập. Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là so sánh hiệu quả và độ an toàn của bài tập Epley sửa đổi và Brandt-Daroff ở bệnh nhân chóng mặt tư thế kịch phát lành tính ống bán khuyên sau

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment