SO SÁNH KỸ THUẬT CẮT NỐI MÁY VÀ NỐI TAY TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG ĐOẠN THẤP
SO SÁNH KỸ THUẬT CẮT NỐI MÁY VÀ NỐI TAY TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG ĐOẠN THẤP
Lê Quang Uy, Châu Hoàng Quốc Chương, Trần Phùng Dũng Tiến, Võ Tấn Long, Bùi Văn Ninh
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư trực tràng đoạn thấp, tại Khoa – Bộ môn Ngoại Tổng Quát bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi đã áp dụng kỹ thuật khâu nối máy từ năm 1993. Qua nghiên cứu này chúng tôi muốn so sánh tính an toàn của kỹ thuật này đối với khâu nối tay. Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Kết quả: Trong thời gian từ tháng 1/1998 đến 9/2002 chúng tôi thực hiện 64 trường hợp khâu nối đại trực tràng cho ung thư trực tràng đoạn thấp (u cách bờ hậu môn 5 – 10 cm) chia làm 2 nhóm: nhóm I gồm 26 ca khâu nối bằng CEEA; nhóm II gồm 38 ca khâu nối tay. Có sự phân bố đều ở 2 nhóm về tuổi, giới, phân chia giai đoạn theo Dukes. Các biến chứng sau mổ: nhiễm trùng vết mổ: nhóm I:3 ca (11,5%), nhóm II:6 ca (15,8%), xì miệng nối khu tru: nhóm I:1 ca (3,8%); nhóm II: 1 ca (2,6%); xì miệng nối cần mổ lại: nhóm I:1 ca (3,8%); nhóm II: 2 ca (5.3%); biến chứng khác:nhóm I: không có ca nào; nhóm II: 1 ca bung thành bụng, 1 ca tiêu chảy và 1 ca viêm phổi hít. Đặc biệt có 2 ca tiêu không tự chủ ở nhóm nối tay và không gặp ca nào ở nhóm khâu nối máy. Không có tử vong ở cả 2 nhóm. Kết luận: Không có sự khác biệt nhau về biến chứng và tỷ lệ tử vong giữa khâu nối tay và nối máy. Điều này cho thấy khâu nối máy vẫn có tính an toàn và giúp cho BN ung thư trực tràng đoạn thấp có chất lượng cuộc sống tốt hơn sau phẫu thuật.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất