So sánh một số yếu tố nguy cơ giữa đẻ song thai với đẻ một thai tại bệnh viện phụ sản trung ương – 2006

So sánh một số yếu tố nguy cơ giữa đẻ song thai với đẻ một thai tại bệnh viện phụ sản trung ương – 2006

Mục tiêu:  (1) .So sánh một số yếu tố nguy cơ đối với mẹ giữa đẻ sinh đôi với đẻ một thai; (2).So sánh một số yếu tố nguy cơ đối với con giữa đẻ sinh đôi với đẻ một thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: hồi cứu mô tả cắt ngang dựa trên hồ sơ bệnh án toàn bộ trường hợp đẻ sinh đôi tại BVPSTƯ từ 1/2006 đến 12/2006:  200  trường  hợp.  Nhóm  chứng:  400   trường  hợp  đẻ  một  thai  trong  cùng  thời  gian;  Tỷ  lệ  nhóm nghiên cứu và nhóm chứng là 1/2. Kết quả:(1) Các yếu tố nguy cơ đối với mẹ đẻ sinh  đôi so với một thai: 

Tỷ lệ thiếu máu 38,3% cao hơn 34,4%, mức độ thiếu máu nặng, trung bình 40,2% so với 17,4%; Chảy máu sau đẻ 6% so với 2,3%; Mổ đẻ 55,7% so với 34,4%. (2) Các yếu tố nguy cơ đối với con đẻ sinh đôi so với một thai: Trẻ cân nặng dưới 2500g chiếm 72,7%so với 14,8%; trẻ sinh non dưới 37 tuần 60,5%  so với 11,3%; trẻ có chỉ số Apgar < 7 chiếm 15% so với 2%. Kết luận:nguy cơ cho bà mẹ và con của đẻ sinh đôi cao hơn so với đẻ một thai 

Sinh  đôi  được  coi  là  thai  nghén  có  nguy  cơ cao,  đặc  biệt  là  có  rất  nhiều  biến  chứng  xảy  ra trong quá trình mang thai đối với người mẹ, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của thai. 

Các biến chứng thường gặp trong đẻ sinh đôi là:  thiếu máu,  tiền  sản giật,  đa ối, thai  dị dạng, thai chậm phát triển trong tử cung, ối vỡ sớm, đẻ non, thai lưu, ngôi thế và kiểu thế bất thường, sa dây rốn…

Phần lớn các trẻ đẻ sinh đôi thường non tháng và  có  trọng  lượng  thấp  dưới  2500g,  do  đó  tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết chu sinh ở những trẻ này cao hơn ở trẻ đẻ một thai. 

Trong  hoàn  cảnh  Việt  Nam  hiện  nay  dù  có nhiều tiến bộ nhưng đẻ sinh đôi vẫn còn những 

vấn đề cần chú ý: Việc  phát  hiện  sớm  các  biến  chứng  của  đẻ sinh  đôi  được  đặt  ra  rất  quan  trọng,  có  từ  20% đến  40%  song  thai  không  được  chẩn  đoán  đến trước  khi  chuyển  dạ  và  trước  đẻ  [6].  Việc  phát hiện  sớm  các  biến  chứng  cho  phép  có  thái  độ chăm  sóc  và  điều  trị  đặc  biệt,  tránh  đẻ  non và tình trạng thai chậm phát triển trong tử cung.

Quan điểm xử trí đối với đẻ sinh đôi hiện nay có những thay đổi đáng kể so với trước kia. Cho đến nay chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào  về  các  biến  chứng  và  nguy  cơ  của  đẻ  sinh đôi.  Chính  vì  những lý  do đó  mà  chúng  tôi  tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: 

1. So sánh một số yếu tố nguy cơ đối với mẹgiữa đẻ sinh đôi với đẻ một thai. 

2. So sánh một số yếu tố nguy cơ đối với congiữa đẻ sinh đôi với đẻ một thai.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment