So sánh tác dụng của hai phương pháp gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có và không kiểm soát nồng độ đích
Luận án So sánh tác dụng của hai phương pháp gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có và không kiểm soát nồng độ đích.Gây mê tĩnh mạch hoàn toàn (GMTMHT) là một phương pháp gây mê toàn thân, không sử dụng các thuốc mê thể khí. Phương pháp này đã được chứng minh có nhiều ưu điểm, do đó các nhà gây mê đang có xu hướng sử dụng GMTMHT nhiều hơn trong thực hành lâm sàng [40], [111], [125], [134].
Thuốc mê tĩnh mạch propofol (Diprivan) đã được sử dụng từ năm 1983 để khởi mê và duy trì mê [53], [95]. Những nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, sử dụng propofol cho phép dễ dàng kiểm soát độ mê, thời gian tiềm tàng ngắn, chất lượng thức tỉnh tốt, tỷ lệ nôn và buồn nôn sau gây mê thấp, rút ngắn thời gian nằm viện [10], [95], [105], [106]. Tại Việt Nam, propofol đã được sử dụng từ những năm 90 của thế kỷ trước với các mục đích an thần trong các thủ thuật hoặc gây mê trên nhiều đối tượng bệnh nhân (BN) khác nhau [2], [6], [8], [11], [12].
Những hiểu biết sâu sắc hơn về dược động học của thuốc mê tĩnh mạch kết hợp với những tiến bộ về công nghệ thông tin trong điều khiển học đã cho ra đời kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích (Target Controlled Infusion – TCI). Thiết bị gây mê kiểm soát nồng độ đích thương mại đầu tiên được đưa vào sử dụng năm 1996. Hệ thống này có khả năng giúp kiểm soát nồng độ thuốc ước đoán trong cơ quan đích là huyết tương hoặc não, nơi thuốc phát huy tác dụng lâm sàng, thông qua việc điều khiển bơm tiêm tự động của một bộ vi xử lý dựa trên cơ sở dữ liệu là các thông số dược động học của thuốc. Kỹ thuật này đã mang lại nhiều ưu điểm hơn trong kiểm soát khởi mê và duy trì mê cho những thuốc mê tĩnh mạch so với các kỹ thuật thông thường khác [19], [69], [134]. Hiện nay, tại nhiều nơi trên thế giới gây mê tĩnh mạch bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích đã trở thành thường quy [53], [95], [105].
Ở Việt nam, propofol thường được dùng để gây mê tĩnh mạch bằng cách tiêm từng liều cách quãng (bolus) hoặc dùng giỏ giọt liên tục hoặc là dùng bơm tiêm điện truyền liên tục (continuous infusion)… tùy theo điều kiện trang bị của từng cơ sở y tế [7], [10]. Việc lựa chọn và điều chỉnh liều thuốc, tốc độ tiêm thuốc, khoảng cách giữa các lần tiêm hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm lâm sàng của các bác sĩ gây mê, do đó chất lượng gây mê chưa thực sự ổn định và đồng đều. Gần đây, gây mê bằng propofol sử dụng kỹ thuật kiểm soát nồng độ đích mới được giới thiệu và bước đầu ứng dụng trong thực hành gây mê tại Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng BN trong các báo cáo nghiên cứu về gây mê kiểm soát nồng độ đích đã công bố trong nước còn hạn chế nên việc đánh giá và so sánh hiệu quả của phương pháp này với các phương pháp đang được tiến hành trên lâm sàng tại Việt nam chưa được đầy đủ [1], [2], [3], [4], [5].
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện đề tài “So sánh tác dụng của hai phương pháp gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có và không kiểm soát nồng độ đích” với các mục tiêu sau:
1. So sánh hiệu quả gây mê bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích với không kiểm soát nồng độ đích trên các bệnh nhân phẫu thuật bụng theo kế hoạch.
2. So sánh ảnh hưởng huyết động và hô hấp giữa gây mê có kiểm soát nồng độ đích và không kiểm soát nồng độ đích
3. Xác định các giá trị nồng độ đích của propofol trong quá trình mê của nhóm gây mê kiểm soát nồng độ đích.
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Những đóng góp mới của luận án
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt, ký hiệu trong luận án
Danh mục các bảng, biểu đồ, hình, ảnh và sơ đồ
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Chương 1: TỔNG QUAN 3
1.1. GÂY MÊ TĨNH MẠCH 3
1.1.1. Định nghĩa 3
1.1.2. Ưu điểm 3
1.1.3. Các hình thức của gây mê tĩnh mạch 3
1.2. GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH 4
1.2.1. Cơ sở lý thuyết 5
1.2.2. Lược sử phát triển kỹ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích 14
1.2.3. Ưu điểm của TCI 16
1.2.4. Ứng dụng lâm sàng 18
1.2.5. Nghiên cứu so sánh TCI với hình thức gây mê tĩnh mạch khác 21
1.3. THUỐC MÊ TĨNH MẠCH PROPOFOL 23
1.3.1. Sơ lược lịch sử 23
1.3.2. Tính chất lý hoá 24
1.3.3. Dược động học 24
1.3.4. Dược lực học 28
1.3.5. Sử dụng lâm sàng 31
1.4. GÂY MÊ TRONG PHẪU THUẬT BỤNG 33
1.4.1. Tiền mê 33
1.4.2. Khởi mê 34
1.4.3. Duy trì mê 34
2. Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 36
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn 36
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 36
2.1.3. Tiêu chuẩn đưa ra khỏi nghiên cứu 37
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 37
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu 37
2.2.3. Các tiêu chí nghiên cứu 38
2.2.4. Các định nghĩa, tiêu chuẩn áp dụng trong nghiên cứu 40
2.2.5. Phương tiện nghiên cứu 45
2.2.6. Quy trình nghiên cứu 50
2.2.7. Đạo đức trong nghiên cứu 57
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU 58
3. Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 59
3.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ PHẪU THUẬT 59
3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân 59
3.1.2. Đặc điểm phẫu thuật 60
3.2. HIỆU QUẢ CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH 63
3.2.1. Các chỉ tiêu về thời gian 63
3.2.2. Tiêu thụ propofol 66
3.2.3. Khả năng duy trì mê 67
3.2.4. Các tác dụng không mong muốn 70
3.3. ẢNH HƯỞNG HUYẾT ĐỘNG VÀ HÔ HẤP CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH 71
3.3.1. Ảnh hưởng huyết động 71
3.3.2. Ảnh hưởng hô hấp 79
3.4. CÁC GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐÍCH 80
4. Chương 4: BÀN LUẬN 82
4.1. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VÀ PHẪU THUẬT 82
4.1.1. Tuổi 82
4.1.2. Chiều cao, cân nặng 83
4.1.3. Giới 83
4.1.4. Tình trạng sức khỏe theo ASA của các BN nghiên cứu 83
4.1.5. Đặc điểm phẫu thuật 84
4.1.6. Các thuốc sử dụng phối hợp 84
4.2. HIỆU QUẢ CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH 86
4.2.1. Các chỉ tiêu về thời gian 86
4.2.2. Tiêu thụ propofol 94
4.2.3. Khả năng duy trì mê 99
4.3. ẢNH HƯỞNG HUYẾT ĐỘNG VÀ HÔ HẤP CỦA GÂY MÊ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH 103
4.3.1. Thay đổi huyết động 103
4.3.2. Ảnh hưởng hô hấp 108
4.4. CÁC GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐÍCH 109
4.4.1. Nồng độ đích khi khởi mê của propofol 109
4.4.2. Nồng độ đích duy trì mê của propofol 111
4.4.3. Nồng độ đích khi thức tỉnh của propofol 112
KẾT LUẬN 114
KIẾN NGHỊ 116
Danh mục các công trình của tác giả liên quan luận án đã được công bố
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1.Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Quốc Tuấn (2009), “So sánh hiệu quả gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có kiểm soát và không kiểm soát nồng độ đích”,Tạp chí Y Dược lâm sàng 108,4(4), tr.121-125.
2.Nguyễn Quốc Khánh (2010), “Khởi mê bằng propofol: kiểm soát nồng độ đích não hay huyết tương?”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 5(6), tr. 80-84.
3.Nguyễn Quốc Khánh (2013), “Đánh giá sự thay đổi huyết động khi gây mê tĩnh mạch bằng propofol có kiểm soát nồng độ đích và không kiểm soát nồng độ đích”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 8(3), tr. 110-114.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất