So sánh tác dụng khôi phục huyết động và ảnh hưởng trên đông máu của Pentastarch 6% và nacl 9‰ ở bệnh nhân chấn thương mất máu trung bình

So sánh tác dụng khôi phục huyết động và ảnh hưởng trên đông máu của Pentastarch 6% và nacl 9‰ ở bệnh nhân chấn thương mất máu trung bình

Nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá tác dụng của Pentastarch và NaCl 9‰ trên huyết động: HA, nhịp tim, PVC và ảnh hưởng trên đông máu khi sử dụng 2 dịch truyền này ở các bệnh nhân chấn thương mất máu trung bình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp trên 65 bệnh nhân chấn thương. Nhóm 1 (n = 34) được truyền nhanh 500ml NaCl 9‰ và duy trì NaCl 9‰; nhóm 2 (n = 31) được truyền nhanh 500ml Pentastarch, duy trì Pentastarch và NaCl 9‰ sau mổ. Đánh giá mạch, Ha, PVC trước trong và sau mổ 180 phút, đông máu 24 giờ sau mổ. Kết quả: Ở nhóm 1 Hatb và PVC tăng lên ở phút 20, nhịp tim giảm từ phút 10; Nhóm 2: Hatb tăng ở phút 15, PVC tăng và nhịp tim giảm ở phút 5, (p < 0,05). Số lượng tiểu cầu, % prothrombine giảm, trong khi INR tăng 24 giờ sau mổ ở cả 2 nhóm (p < 0,5). Không có sự khác biệt về giảm đông giữa giữa 2 nhóm nghiên cứu (p > 0,5). Kết luận: Pentastarch 6% có khả năng khôi phục tuần hoàn trong 15 phút đầu, duy trì huyết động ổn định trong và sau mổ tốt hơn NaCl 9‰ ở bệnh nhân chấn thương mất máu trung bình. Giảm đông máu 24 giờ đầu sau mổ xuất hiện ở cả 2 nhóm

Chảy máu sau chấn thương gây thiếu cả hồng cầu lẫn huyết tương. Tuy nhiên thiếu huyết tương mới là nguyên nhân chính gây thiếu khối lượng tuần hoàn, suy tuần hoàn sớm sau chấn thương [5]. Huyết thanh mặn đẳng trương (NaCl 9‰) là một dịch truyền cơ bản nhất trong cấp cứu chấn thương, được lựa chọn đầu tiên cho các trường hợp  mất  máu.  Tuy  nhiên  NaCl  9‰  phải  được truyền với số lượng gấp 3 – 4 lần thể tích máu mất, trong khi thời gian lưu giữ ngắn trong lòng mạch. Vì vậy khả năng khôi phục khối lượng tuần hoàn chậm và kém hiệu quả trong khi nguy cơ quá tải dịch truyền cao [4].
Nhóm dịch keo tổng hợp Hydroxyethyl starch đã được sử dụng rộng rãi để thay thế huyết tương vì khả năng khôi phục nhanh và duy trì tốt khối lượng tuần hoàn, cho phép tránh được truyền máu trong những trường hợp chưa cần thiết, cũng như trì hoãn việc truyền máu trong cấp cứu [3, 6, 8]. Tuy nhiên một số nghiên cứu gần đây nhận thấy sử dụng loại dịch truyền này có thể ảnh hưởng tới tình trạng đông máu trong và sau mổ của bệnh nhân  chấn  thương,  đặc  biệt  khi  truyền  với  số lượng lớn [1, 7, 10].
Tại Việt Nam Pentastarch cũng như các dịch thay thế máu đã được sử dụng trong những năm gần đây, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào so sánh hiệu quả khôi phục khối lượng tuần hoàn cũng như tác dụng trên đông máu của dịch truyền này với NaCl 9‰. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1.    Đánh giá tác dụng của Pentastarch  và NaCl 9‰ trên huyết động: HA động mạch, nhịp tim, áp lực tĩnh mạch trung tâm.
2.    Đánh giá ảnh hưởng trên đông máu  khi sử dụng 2 dịch truyền này ở các bệnh  nhân chấn thương mất máu trung bình.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, đối chứng, tiến hành trên các bệnh nhân chấn thương phải mổ tại phòng mổ cấp cứu, phòng hồi tỉnh, khoa Gây mê hồi sức, bệnh viện Việt – Đức, 5/2003 – 5/2005.
2.    Đối tượng nghiên cứu
    Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Chấn thương trung bình hoặc nặng, điểm ISS 9 – 24; Tuổi > 15; Mất máu trung bình, 10 – 20%
thể tích (Ht 28 – 32%); Không có chấn thương TKTW, ngực, thận, gan, dập nát phần mềm nặng; Chưa được truyền dịch cao phân tử hoặc máu.
    Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Có tiền sử dị ứng với Hydroxyethyl starch, tiền sử bệnh máu và đông máu; Có bất thường về xét nghiệm đông máu trước mổ; Mất máu nhiều trong mổ, phải truyền > 2 đơn vị hồng cầu khối hoặc Plasma tươi.
3.    Tiến hành nghiên cứu
    Các chỉ số nghiên cứu
Huyết động: nhịp tim, HA tối đa, tối thiểu, trung bình, PVC. Đông máu: rối loạn đông máu trên lâm sàng, thời gian Howell, %prothrombine, tiểu cầu, fibrinogene, thời gian hoạt hoá một phần thromboplastin (APTT), và chỉ số chuẩn quốc tế.
    Đánh giá trước can thiệp
Bệnh nhân được đưa vào phòng hồi tỉnh 30 phút  trước  mổ:  Đánh  giá  tổn  thương,  độ  nặng chấn thương (ISS), hematocrite; Monitoring, đặt catheter tĩnh mạch cảnh ngoài, bệnh nhân không thở Oxy, không được tiền mê trong lúc đánh giá.
Đánh giá huyết động: Nhịp tim; HA động mạch tối đa, tối thiểu và trung bình (HAtt, HAttr và HAtb); áp lực tĩnh mạch trung tâm (PVC), nhờ máy AGILENT V26C.
Đánh giá đông máu: Thời gian Howell, % prothrombine, số lượng tiểu cầu, fibrinogene, thời gian hoạt hoá một phần thromboplastin (APTT), và chỉ số chuẩn  quốc tế (INR) tại khoa huyết học bệnh viện Việt – Đức.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment