Sự biến đổi một số chỉ số hóa sinh liên quan đến hội chứng kháng Insulin ở bệnh nhân tiền sản giật
Tiền sản giật (TSG) gây ra nhiều biến chứng cho thai phụ và thai nhi, làm cho thai chậm phát triển trong tử cung, thai chết lưu, chậm phát triển tâm thần ở trẻ nhỏ, gây biến chứng sản giật, rau bong non, chảy máu sau đẻ và nhiều biến chứng không phục hồi ở mẹ, là nguyên nhân chính của tử vong do mang thai trên thế giới. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của TSG đến nay vẫn còn chưa được biết rõ, do đó các nghiên cứu để tìm hiểu nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của TSG là cần thiết để phục vụ tốt cho công tác phòng và chữa bệnh.
Kháng insulin là tình trạng suy giảm đáp ứng sinh học của insulin, biểu hiện thông thường bằng sự gia tăng nồng độ insulin huyết tương. Hội chứng kháng insulin bao gồm một nhóm các bất thường như tăng HA, cường insulin huyết tương, không dung nạp glucose, béo phì và bất thường lipid huyết tương. Một số nghiên cứu đã chứng minh tình trạng kháng insulin hoặc bất thường liên quan đến kháng insulin có vai trò trong sự rối loạn khởi phát tăng HA trong thai kỳ. Hơn nữa. một số điểm giống nhau trong sự biến đổi một số chỉ số hoá sinh nhất định giữa TSG và kháng insulin gợi ý một liên kết có thể giữa kháng insulin và TSG. Vì vậy, đề tài này được tiến hành nhằm mục tiêu:
1. Tìm hiểu sự thay đổi nồng độ glucose, insulin và một số chỉ số lipid huyết tương ở bệnh nhân tiền sản giật.
2. Nghiên cứu mối liên quan giữa chỉ số kháng insulin với tình trạng cao huyết áp và protein niệu ở bệnh nhân tiền sản giật.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm 60 thai phụ đến khám tại bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 04 đến tháng 07 năm 2010, được chia làm 2 nhóm. 30 thai phụ từ tuần thứ 21 trở lên, khỏe mạnh, có một thai và thai phát triến bình thường. 30 thai phụ từ tuần thứ 21 trở lên, có một thai và không thấy có dị dạng nào của thai, HA tối đa
≥ 140mmHg trở lên, HA tối thiểu ≥ 90mmHg trở lên, Protein niệu ≥ 0,3g/l ở mẫu nước tiểu 24h hoặc 0,5g/l ở mẫu nước tiểu ngẫu nhiên.
2. Phương pháp
Mô tả cắt ngang tiến cứu. Đối tượng nghiên cứu được lấy máu để định lượng nồng độ glucose, cholesterol toàn phần, triglycerid, HDL – C, LDL – C, insulin huyết tương; lấy nước tiểu để định lượng protein niệu. Chỉ số kháng insulin (HOMA – IR) ở đối tượng nghiên cứu được tính theo công thức của Mathew và cộng sự
HOMA IR =
I0(μU/ml) x G0(mmol/l) 22,5
III. KẾT QUẢ
Các thai phụ có tuổi trung bình đều nằm trong lứa tuổi sinh đẻ bình thường. Tuổi trung
Xử lý số liệu: Các số liệu được nhập và xử lý bởi phần mềm thống kê y học SPSS 13.0. Dùng test Mann Whitney để so sánh sự khác biệt của các giá trị trung bình, với p < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Tìm mối liên quan giữa chỉ số kháng insulin với tình trạng cao HA và protein niệu bằng mô hình hồi quy tuyến tính đơn biến.bình của nhóm chứng là: 27,83 ± 4,89, nhóm TSG là 31,70 ± 6,21 (p < 0,05). Tuổi thai trung bình của thai phụ ở cả hai nhóm là 32,7 ± 3,77 tuần và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi thai giữa các nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích