Sự bộc lộ của thụ thể EGFR vàher-2/neu trong ung thư biểu mô tuyến bã và ung thư biểu mô tế bào đáy ở mi mắt

Sự bộc lộ của thụ thể EGFR vàher-2/neu trong ung thư biểu mô tuyến bã và ung thư biểu mô tế bào đáy ở mi mắt

Mục tiêu: Xác định tỷ lê dương tính và sự phối hợp bộc lộ của các thụ thể EGFR và Her-2/neu trong UTBM tuyến bã và UTBM tế bào đáy ở mi mắt.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Một trăm linh tám trường hợp đã được khẳng định về mặt mô bênh học là UTBM tuyến bã hoặc UTBM tế bào đáy ở mi mắt được nhuộm hóa mô miễn dịch với các thụ thể EGFR và Her-2/neu.
Kết quả: Tỷ lê dương tính của EGFR trong UTBM tuyến bã, UTBM tế bào đáy là 77,5%, 79,4% và tỷ lê dương tính của Her-2/neu tương ứng là 77,5% và 70,6%. Có 60% các trường hợp UTBM tuyến bã cùng bộc lộ dương tính với EGFR và Her-2/neu. Tỷ lê này trong UTBM tế bào đáy là 55,9%.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng sự bộc lộ của thụ thể EGFR và Her- 2/neu đều ở mức cao ở cả UTBM tuyến bã và UTBM tế bào đáy; đổng thời có sự phối hợp bộc lộ giữa EGFR và Her-2/neu ở trong hai loại ung thư trên.
Từ khóa: Ung thư biểu mô tuyến bã, ung thư biểu mô tế bào đáy, mi mắt, hóa mô miễn dịch.
I.    ĐẶT VẤN ĐỂ
Ung thư biểu mô (UTBM) tuyến bã và UTBM tế bào đáy là 2 loại ung thư mi hay gặp nhất trong số các ung thư ở mi mắt; trong đó UTBM tuyến bã phần lớn gặp ở mi trên, chủ yếu xuất phát từ tuyến Meibomius trong sụn mi và cũng có thể từ tuyến Zeis còn UTBM tế bào đáy hay gặp ở mi dưới, xuất phát từ lớp đáy của biểu bì hoặc nang lông da mi [5].
Hiên nay, phương pháp điều trị chủ yếu đối với UTBM tuyến bã và UTBM tế bào đáy ở mi mắt vẫn là phẫu thuật nhằm mục đích cắt bỏ hoàn toàn khối u. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp ở giai đoạn muộn, u đã xâm lấn kết mạc, hốc mắt thì việc cắt hết u rất khó khăn và khi đó thì một biên pháp điều trị bổ xung là rất cần thiết. Hơn nữa, cho tới nay vẫn chưa có một biên pháp nào điều trị thật hiêu quả các trường hợp di căn UTBM tuyến bã. Trong vài năm gần đây, nhiều loại ung thư đã được điều trị hiêu quả với “liêu pháp nhắm trúng đích” (target therapy). Các protein có mặt ở trên màng tế bào u là một trong những đích cần nhắm tới của “liêu pháp nhắm trúng đích” và họ các yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGF-Epidermal growth factor) là một đích như vậy.
Yếu tố tăng trưởng biểu bì là một trong những yếu tố tăng trưởng được biết đến sớm nhất bởi Stanley Cohen và cộng sự tìm thấy vào năm 1962. Thụ thể của yếu tố tăng trưởng thượng bì là một nhóm gổm Epidermal Growth factor receptor (EGFR) hay HER1/erbB1, Human Epidermal Growth factor receptor 2 (HER2/erbB2) hay còn gọi là Her-2/neu, HER3/erbB3 và
HER4/erbB4. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và biệt hóa các tế bào biểu mô vì khi yếu tố phát triển biểu bì gắn với các thụ thể, nó tạo ra một chất hóa học mang tên tyrosine kinase kích hoạt quá trình chuyển hóa trong tế bào khiến nó phát triển và phân chia nhanh chóng hơn bình thường [4]. Sự bộc lộ bất thường của EGFR và Her-2/neu được phát hiện trong nhiều loại ung thư và liên quan tới tiên lượng xấu của bệnh [2].
Theo hiểu biết của chúng tôi thì đã có một vài công trình nghiên cứu về thụ thể EGFR trong UTBM tuyến bã và Her-2/neu trong UTBM tế bào đáy nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào về cả 2 thụ thể EGFR và Her-2/neu trên UTBM tuyến bã và UTBM tế bào đáy ở mi mắt. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ dương tính và sự phối hợp bộc lộ của thụ thể EGFR và Her-2/neu trong UTBM tuyến bã và UTBM tế bào đáy ở mi mắt bằng kỹ thuật hóa mô miễn dịch.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
1.    Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 40 bệnh nhân UTBM tuyến bã và 68 bệnh nhân UTBM tế bào đáy ở mi mắt đã được chẩn đoán xác định về mặt mô bệnh học và được điều trị tại Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 1 năm 2005 đến hết tháng 10 năm 2008.
2.    Phương pháp nghiên cứu 2.1. Nhuộm hóa mô miễn dịch
Trước hết, bệnh phẩm được cắt mảnh dày 3 |im từ các khối nến, dán lên lam kính. Sau đó các mảnh cắt được loại nến trong xylen và loại nước trong cồn với nồng độ giảm dần. Bộc lộ kháng nguyên bằng nồi áp suất trong dung dịch đệm Citrate 0,01M, pH 6 của hãng Dako rồi rửa trong nước và dung dịch đệm phốt phát (PBS) 1X. Tiếp theo, các mảnh cắt được nhỏ ôxy già 3% trong 30 phút nhằm ngăn ngừa hoạt động của men peroxidase nội sinh, rửa trong PBS 1X. Khử các liên kết không đặc hiệu bằng huyết thanh bê (Bovin serum albumin-BSA). Rửa lại tiêu bản trong PBS 1X. Ủ qua đêm ở nhiệt độ 4oc với kháng thể EGFR (của hãng Novocastra, nồng độ 1/100) và Heu2/neu (của hãng Serotec nồng độ 1/200). Rửa trong PBS1X.BSA 0,1%, ủ với kháng thể thứ phát trong 30 phút ở nhiệt độ phòng và rửa trong PBS1X.BSA 0,1%. Nhỏ và ngâm trong dung dịch DAB từ 3-4 phút (vừa nhỏ vừa theo dõi) rồi rửa lam kính trong nước và PBS 1X. Cuối cùng, lam kính được nhuộm với Mayer’ Hematoxylin trong 5 giây, được loại nước và gắn Lamen bằng Clarion (Biomeda, USA). Chúng tôi dùng các mẫu bệnh phẩm của UTBM thực quản khi đã biết trước các mẫu đó có dương tính với EGFR và Her-2/neu để làm chứng dương và dùng chính các tiêu bản UTBM tuyến bã và UTBM tế bào đáy làm chứng âm

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment