Sử dụng DVYT và các yêu tố ảnh hưởng giai đoạn 1995 – 2001 tại huyên Võ Nhai, Thái Nguyên

Sử dụng DVYT và các yêu tố ảnh hưởng giai đoạn 1995 – 2001 tại huyên Võ Nhai, Thái Nguyên

Ngay từ khi cách mạng tháng 8- 1945 mới thành công, Chủ tịch Hổ Chí Minh đã nói “giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sông mới, việc gì cũng cần cổ sức khoẻ mới thành công”[2]. Sức khoẻ là cái gốc để con người phát triển, là niềm hạnh phúc của mỗi con người, mỗi gia đình và của toàn xã hôi. Vì vây đầu tư cho sức khoẻ vừa là mục tiêu vừa là đông lực để phát triển kinh tế xã hôi.

Trước khi đổi mới ngành y tế näm 1989. Mọi người dân Viêt Nam đều được chäm sóc sức khoẻ (CSSK) miễn phí. Do đó có rất ít các nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu sử dụng dịch vụ dịch vụ y tế (DVYT) trong giai đoạn này.

Từ näm 1986, Đại hôi Đảng lần thứ VI đã chính thức thực hiên công cuôc đổi mới của đất nước, Viêt Nam đã chuyển sang môt giai đoạn mới. Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng về kinh tế, tỷ lê đói nghèo giảm xuống đáng kể. Trong vòng 5 näm trở lại đây đã có 1,5 triêu hô nghèo (tương đương 7,5 triêu người thoát khỏi cảnh nghèo). Số hô đói kinh niên giảm từ 450.000 hô (1995) xuống còn khoảng 150.000 hô (2000) [3]. Về chính trị- xã hôi, Viêt Nam từng bước hôi nhâp với các nước trong khu vực và thế giới, chú trọng đầu tư phát triển vän hoá xã hôi đâc biêt là giáo dục nhằm nâng cao chất lượng cuôc sống của nhân dân. Song song với sự phát triển kinh tế- xã hôi là những thay đổi lớn trong hoạt đông y tế. Đó là viêc Nhà nước cắt giảm bao cấp cho y tế và môt chế đô viên phí được áp dụng từ Trung ương tới địa phương [14], xã hôi hoá công tác chäm sóc và bảo vê sức khoẻ nhân dân (CSBVSKND), đa dạng hoá các loại hình DVYT (Nhà nước, dân lâp, tư nhân) [17], củng cố hê thống tổ chức y tế địa phương đâc biêt là mạng lưới y tế cơ sở [3]. Điều đó góp phần đáng kể vào viêc đáp ứng nhu cầu CSSK của mọi tầng lớp nhân dân và cũng giúp người dân có nhiều cơ hôi tìm kiêm loại hình dịch vụ CSSK riêng, phù hợp cho mình.

Cùng với sự phát triển về kinh tế và dân trí thì người dân ngày càng quan tâm tới sức khoẻ của mình hơn và lúc này họ có quyền tự do lựa chọn DVYT nào mà họ muốn sử dụng.

Đên nay đã có môt số nghiên cứu về tình hình sử dụng DVYT và các yêu tố ảnh hưởng. Các nghiên cứu này cho thấy tỷ lê sử dụng DVYT có xu hướng giảm, mức đô sử dụng DVYT chất lượng cao của những người khá giả cao hơn nhiều so với những người nghèo, ở thành thị lớn hơn nông thôn và miền núi. Khả năng tiêp cân với DVYT phụ thuôc vào rất nhiều yêu tố. Giá thành CSSK tăng cao, tỷ lê người nghèo được giảm/ miễn viên phí còn thấp khiên người nghèo khó có khả năng tiêp cân với DVYT do thiêu tiền. Để góp phần làm rõ vấn đề này hơn chúng tôi đã tiên hành nghiên cứu đề tài: “ Sử dụng DVYT và các yêu tố ảnh hưởng giai đoạn 1995 – 2001 tại huyên Võ Nhai, Thái Nguyên” với ba mục tiêu cụ thể như sau:

1. Mô tả xu hướng sử dụng DVYT của nhân dân huyên Võ Nhai, Thái Nguyên giai đoạn 1995 -2001.

2. Mô tả môt số yêu tố ảnh hưởng đên viêc sử dụng DVYT của nhân dân huyên Võ Nhai, Thái Nguyên giai đoạn 1995- 2001.

3. Thăm dò xu hướng chi phí cho khám chữa bênh (KCB) và miễn giảm viên phí tại các CSYT nhà nước.

Kêt quả của nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin giúp cho nghành y tể có kể hoạch trong viêc nâng cao chất lượng các dịch vụ CSSK tại địa phương.

3

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment