Thông khí trong gây mê phẫu thuật là vấn đề quan trọng vì nếu không kiểm soát tốt thông khí sẽ ảnh hưởng tính mạng người bệnh để lại nhiều biến chứng và di chứng, đặc biệt di chứng thần kinh. Có một số’ dụng cụ giúp đảm bảo việc thông khí như: nội khí quản, mặt nạ mặt, các loại mặt nạ thanh quản. Đặt nội khí quản được sử dụng để giữ thông đường hô hấp một cách hiệu quả và chắc chắn nhất, nhưng nội khí quản vẫn có một số những bất lợi như: ảnh hưởng huyết động khi đặt và rút, những biến chứng vùng hầu họng, những khó khăn khi đặt nội khí quản khó.
Để giải quyết những vấn đề này, năm 1981 Archie Brain và cộng sự(1) đã thiết kế’ mặt nạ thanh quản cổ điển (c-LMA: classic Laryngeal Mask Airway) để thay thế’ ống nội khí quản. Tuy nhiên mặt nạ thanh quản cổ điển có một số’ nhược điểm: không chịu được áp lực cao khi thông khí áp lực dương, dễ chướng hơi dạ dày, nguy cơ hít dịch trào ngược cao… Do đó năm 2000, Archie Brain và cộng sự thiết kế’ mặt nạ thanh quản Proseal (PLMA:Proseal
Laryngeal Mask Airway) đã khắc phục những nhược điểm trên.
Với những ưu điểm về ổn đinh huyết động khi đặt và rút MNTQ, giảm được những biến chứng sau mổ cũng như đặt MNTQ không cần dãn cơ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch trên bệnh nhân ung thư vú.
Mục tiêu nghiên cứu
-Xác đinh tính an toàn qua sự biến đổi huyết động học trong gây mê phẫu thuật ở hai nhóm.
-Xác đinh tính hiệu quả thông khí qua: áp lực thông khí, SpƠ2, ETCO2 ở 2 nhóm.
-Xác đinh các tai biến và biến chứng trong và sau mổ ở hai nhóm.
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
– Tất cả các bệnh nhân ung thư vú được mổ chương trình có chỉ đinh gây mê phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách.
-Bệnh nhân có phân loại ASA I, II, III Tiêu chuẩn loại trừ
– Bệnh nhân không đồng ý sử dụng mặt nạ thanh quản
-Bênh nhân có chống chỉ đinh sử dụng mặt nạ thanh quản
Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, so sánh, kiểm chứng.
– Cỡ mẫu: 196 bệnh nhân chia thành hai nhóm
– Nhóm I: 98 bệnh nhân được gây mê toàn diện với mặt nạ thanh quản Proseal.
-Nhóm II: 98 bệnh nhân được gây mê toàn diện với ống nội khí quản
-Đia điểm và thời gian nghiên cứu: thu thập số’ liệu tại khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức bệnh viện Ung Bướu từ tháng 7/2009 đến tháng 3/2010.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bi dụng cụ, trang thiết bi, thuốc gây mê hồi sức trước cuộc mổ như một cuộc gây mê thường qui.
Tiền mê: Midazolam 0,05-0,1 mcg/kg + Sufentanil 0,2-0,3 mcg/kg tiêm tĩnh mạch. Khởi mê: Propofol 2-2,5 mg/kg, Rocuronium 0,3-0,6 mg/kg cho nhóm đặt nội khí quản.
Tiến hành đặt mặt nạ thanh quản Proseal, NKQ.
Duy trì mê: oxy và Sevoflurane, Sufentanil và dãn cơ nếu cần.
Thu thập các thông số: mạch, huyết áp trước và sau khi đặt cũng như lúc rút mặt nạ thanh quản hoặc ống NKQ, SpO2, ETCO2, thời gian