Sử dụng phương pháp đo áp lực trong sọ để theo dõi và điều trị chấn thương sọ não nặng

Sử dụng phương pháp đo áp lực trong sọ để theo dõi và điều trị chấn thương sọ não nặng

Sử dụng phương pháp đo áp lực trong sọ để theo dõi và điều trị chấn thương sọ não nặng

Đồng Văn Hệ, Lý Ngọc Liên và cộng sự
Tóm tắt
Mục đích: đánh giá hiệu quả việc sử dụng phương pháp đo áp lực trong sọ để điều trị và theo dõi chấn thương sọ não nặng.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu dựa vào 15 bệnh nhân chấn thương sọ não nặng đã được đo áp lực trong sọ tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 11/2008 tới tháng 5/2009. Tất cả 15 bệnh nhân đều được đo áp lực trong sọ tại Khoa Hồi sức hay phòng mổ. Bệnh nhân được theo dõi áp lực trong sọ liên tục nhờ hệ thống monitoring. Khi áp lực cao trên 20mmHg thì điều chỉ điều trị, hay chụp lại cắt lớp, hoặc mổ. Hệ thống đo áp lực trong sọ được giữ tới khi áp lực trong sọ trở về bình thường. Đánh giá hiệu quả sử dụng dụng cụ đo áp lực trong sọ, biến chứng, nguy cơ của dụng cụ đo.
Kết quả: Tổng số 15 bệnh nhân đã được áp dụng phương pháp theo dõi này: 10 nam và 5 nữ. Tuổi cao nhất 61 và thấp nhất 13. Tất cả 15 trường hợp đều đo được áp lực trong sọ, 5 trường hợp đo được áp lực tướimáu não. áp lực cao nhất là 45mmHg và thấp nhất khi đo là 16 mmHg. Hai bệnh nhân áp lực tăng cao được chụp cắt lớp vi tính và mổ. 3 bệnh nhân tử vong (20%) và sống 12 (80%). Cả 3 bệnh nhân tử vong đều có áp lực trong sọ cao hơn 40mmHg. Không có biến chứng nhiễm trùng, chảy máu hay biến chứng khác liên quan tới dụng cụ đo áp lực.
Kết luận: Đo áp lực trong sọ để theo dõi và điều trị chấn thương sọ não nặng là phương pháp an toàn, hiệu quả
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment