SỰ SÁT KHÍT CỦA KHỐI VẬT LIỆU THEO CÁC VỊ TRÍ THÀNH ỐNG TỦY ĐƯỢC TRÁM BÍT BẰNG HỆ THỐNG OBTURA II
SỰ SÁT KHÍT CỦA KHỐI VẬT LIỆU THEO CÁC VỊ TRÍ THÀNH ỐNG TỦY ĐƯỢC TRÁM BÍT BẰNG HỆ THỐNG OBTURA II
Trịnh Thị Thái Hà, Trương Thị Hiếu Hạnh
Viện đào tạo Răng Hàm Mặt – Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu nhằm đánh giá sự sát khít của khối vật liệu được trám bít bằng hệ thống Obtura II ở vị trí 1/3 chóp và vị trí tận hết chiều dài làm việc của ống tủy trên phim Xquang và các lát cắt ngang chân răng sau khử khoáng dưới kính hiển vi điện tử. Phương pháp: cắt ngang mô tả. Kết quả cho thấy, trên phim Xquang: có 10,3% khoảng trống nằm ở trung tâm khối vật liệu ở vị trí 1/3 cuống và 89,7% không có khoảng trống giữa khối vật liệu. Trên các lát cắt ngang ở vị trí chiều dài làm việc và 1/3 chóp răng 100% có khoảng trống nằm ở chu vi hoặc trung tâm khối vật liệu với đường kính khoảng trống từ 5 – 70ụm. Sự khác biệt không có ý nghĩa với p = 0,271 > 0,05. Kỹ thuật hàn nhiệt ba chiều bằng hệ thống Obtura II có sự sát khít tốt với thành ống tủy.
Việc trám bít kín ống tủy đóng vai trò quan trọng trong điều trị nội nha, giúp ngăn chặn các vi gãy và sự xâm nhập của dịch quanh cuống răng vào hệ thống ống tủy, ngăn cản sự tái viêm nhiễm và thiết lập môi trường vi sinh thuận lợi cho quá trình phục hồi các thương tổn. Nhiều kỹ thuật trám bít ra đời nhằm đạt được mục đích trên, trong đó có kỹ thuật hàn nhiệt ba chiều với hệ thống Obtura II. Năm 1967, Schilder [2] đã giới thiệu kỹ
thuật trám bít gutta – percha ấm thay cho kỹ thuật lèn ngang kinh điển. Nghiên cứu của Weller và cộng sự (1997) khi so sánh hiệu quả đáp ứng với thành ống tủy của ba kỹ thuật: lèn ngang, hệ thống Obtura II và Thermafil cho
thấy hệ thống Obtura II đạt tỷ lệ cao nhất, hầu như không xuất hiện khoảng trống giữa khối chất trám bít, tạo thành một khối vật liệu liên tục
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất