Sự thay đổi của nồng độ oxy bão hòa trong máu ở bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát sự thay đổi của nồng độ oxy bão hòa trong máu của bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ. Nghiên cứu được thực hiện trên 60 bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ theo tiêu chuẩn của Walter T. Mc Nicholas, 2008. Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được khám lâm sàng và ghi đa ký giấc ngủ một đêm, đo và ghi lại kết quả nồng độ oxy bão hòa trong máu. Kết quả cho thấy: nồng độ oxy bão hòa nền là 94,12 ± 1,85 (%), nồng độ oxy bão hòa thấp nhất là 79,65 ± 8,28 (%), 45% bệnh nhân có nồng độ oxy bão hòa thấp nhất dưới 80%. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ oxy bão hòa thấp nhất thay đổi rõ theo mức độ của hội chứng, mức độ càng nặng thì nồng độ oxy bão hòa thấp nhất càng thấp do vậy đánh giá nồng độ oxy bão hòa trong máu rất có giá trị trong việc chẩn đoán và đánh giá mức độ nặng của hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ. Nghiên cứu về rối loạn giấc ngủ thực sự khởi sắc vào những năm 1970 ở trường Đại học Stand- ford (Hoa Kỳ) khi mà cảm biến về hô hấp, tim mạch, điện não đồ, nhãn cầu đồ và điện cơ được ghi hàng đêm và được Holland và cộng sự đặt tên là đa ký giấc ngủ (PSG. Polysomnography) [1]. Để phát hiện và làm rõ các bất thường hô hấp, người ta cần thu thập và ghi lại các tín hiệu có ý nghĩa của lưu lượng khí thở, gắng sức hô hấp và nồng độ oxy bão hoà trong máu [2]. Đo nồng độ oxy bão hòa trong máu cho thấy rõ dấu hiệu gợi ý ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ dưới dạng giảm nồng độ oxy bão hòa tái diễn dạng răng cưa. Năm 2008, Nuria R và cộng sự cho thấy bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ với chứng buồn ngủ quá nhiều ban ngày có sự thay đổi về cấu trúc giấc ngủ, tần số thức giấc cao hơn, nồng độ oxy bão hoà trong máu thấp hơn so với nhóm chứng [3]. Đo nồng độ oxy bão hòa trong máu còn có giá trị trong sàng lọc bệnh nhân. Với các trường hợp có nghi ngờ ngừng thở khi ngủ, bệnh nhân có thể được đeo đa ký giấc ngủ có theo dõi nồng độ oxy bão hòa tại nhà và mang kết quả đến vào ngày hôm sau. Ưu điểm của phương pháp này là bệnh nhân ngủ tại nhà và không bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng thay đổi phòng ngủ. Sự phối hợp giữa chỉ số ng ừng thở, giảm thở và đặc biệt là n ồng độ oxy bão hoà trong máu giữ vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán, đánh giá mức độ và lựa chọn phương pháp điều trị đúng cho bệnh nhân mắc hội chứng ngững thở do tắc nghẽn khi ngủ [1; 4]. Ở Việt Nam, nghiên cứu về sự thay đổi nồng độ oxy bão hòa trong máu ở các bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn còn ít được đề cập đến. Tìm hiểu về vấn đề này sẽ góp phần vào vào việc chẩn đoán sớm và đưa ra phương pháp điều trị hợp lý cho bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ, một hội chứng đang ngày càng được quan tâm ở Việt Nam. Xuất phát từ lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Sự thay đổi của nồng độ oxy bão hòa trong máu ở bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ” với mục tiêu: khảo sát sự biến đổi của nồng độ oxy bão hòa trong máu ở bệnh nhân mắc hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất