Sự thay đổi một số chỉ số hình thái ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam
Người phụ nữ ở độ tuổi 40 – 50 có nhiều thay đổi về hình thái – chức năng do sự thiếu hụt p estradiol. Mục tiêu: (1) Mô tả sự thay đổi chiều cao, cân nặng, chỉ số khối của phụ nữ mãn kinh (2) Xác định bề dày lớp mỡ dưới da của phụ nữ mãn kinh. Đối tượng và phương pháp: 2925 phụ nữ mãn kinh và 1136 phụ nữ 29 – 35 tuổi (phụ nữ sinh sản) ở 7 tỉnh/ thành phố Hà Nội, Thái Bình, Thái Nguyên, Huế, Đắc Lắc, Bình Định, Cần Thơ được đo chiều cao, cân nặng, tính BMI, bề dày lớp mỡ dưới da ở 5 vị trí với cùng công cụ và người đo. Kết quả: Phụ nữ mãn kinh có chiều cao, cân nặng giảm so với phụ nữ sinh sản và giảm dần theo thời gian mãn kinh. BMI của phụ nữ mãn kinh ở nội thành Hà Nội, Huế và Cần Thơ tăng nhưng ở các vùng khác sự thay đổi không rõ rệt. Bề dày lớp mỡ dưới da ở vùng mông và đùi giảm nhưng lại tăng ở vùng bụng. Kết luận: Có sự giảm rõ rệt chiều cao, cân nặng, tăng bề dày lớp mỡ dưới da vùng bụng, giảm bề dày lớp mỡ dưới da vùng mông – đùi ở phụ nữ mãn kinh.
Mãn kinh là một giai đoạn đặc biệt xảy ra ở phụ nữ vào độ tuổi 40 – 50. Trong giai đoạn này một mặt do tác động của sự lão hoá, mặt khác do sự suy giảm bài tiết hormon buồng trứng đặc biệt là p estradiol nên ở người phụ nữ có nhiều biến động về hình thái và chức năng [1, 2, 3, 6]. Tất cả nhưng biến đổi này đã dẫn tới nhiều nguy cơ bệnh lý cho phụ nữ trong giai đoạn này và được gọi chung bằng một thuật ngữ “Hội chứng mãn kinh”. Vấn đề này đã được các nhà khoa học Âu – Mỹ nghiên cứu nhiều vào những năm 80 – 90 của thập kỷ XX [7, 8, 9, 10].
Ở nước ta mặc dù phụ nữ từ 50 tuổi trở lên chiếm một tỷ lệ khá lớn (9% tổng dân số) nhưng cho tới những năm cuối của thế kỷ XX, lĩnh vực sức khoẻ của phụ nữ mãn kinh (PNMK) hầu như vẫn còn là một khoảng trống trong y văn. Kết quả nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và cộng sự đã cho thấy bước vào độ tuổi trung niên hầu như tất cả các kích thước của cơ thể đều giảm trong đó tốc độ giảm ở phụ nữ xảy ra nhanh hơn nam [4]. Một số tác giả khác khi nghiên cứu về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh đã cho thấy có sự thay đổi rõ rệt về chiều cao, BMI ở phụ nữ mãn kinh và tầm vóc là một trong các yếu tố có liên quan đến bệnh loãng xương [1, 5] của phụ nữ mãn kinh. Tuy nhiên những nghiên cứu này chưa mang tính đại diện và chưa cho thấy rõ diễn biến của sự thay đổi hình thái ở phụ nữ mãn kinh Việt Nam xảy ra như thế nào? Xuất phát từ những vấn đề đã nêu trên, công trình này được tiến hành nhằm mục tiêu:
1. Mô tả sự thay đổi chiều cao, cần nặng, chỉ số khối (BMI) của PNMK.
2. Xác định bề dày lớp mỡ dưới da của PNMK.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
– 2925 phụ nữ mãn kinh tự nhiên trong khoảng tuổi 40 – 55 được chia thành 3 nhóm: MK < 5 năm, MK > 5 – 10 năm, MK > 10 năm.
– 1136 phụ nữ ở độ tuổi 29 – 35 (PNSS) đã có chồng, không đang trong thời kỳ mang thai hoặc nuôi con, không bị cắt bỏ buồng trứng hoặc đang dùng các hormon nội tiết. Những phụ nữ này được coi là nhóm đối chứng.
2. Phương pháp nghiên cứu
– Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
– Chọn mẫu: Các đối tượng nghiên cứu được chọn đều ở 7 tỉnh/ thành phố đại diện cho 7 vùng sinh thái, đó là thành phố Hà Nội, tỉnh Thái Bình, tỉnh Thái Nguyên, thành phố Huế, Tỉnh Đắc Lắc, tỉnh Bình Định, tỉnh Cần Thơ. Trong mỗi tỉnh chọn
1 huyện đại diện cho 7 vùng sinh thái . Đối tượng được chọn theo phương pháp “cổng tìm cổng” cho đến khi đủ số lượng.
– Thông số nghiên cứu: Chiều cao, cân nặng, BMI, bề dày lớp mỡ dưới da ở mỏm vai, cánh tay, bụng, mông, đùi.
– Kỹ thuật thu thập số liệu.
+ Chiều cao, cân nặng: Được đo bằng thước đo nhân trắc và cân Trung Quốc chính xác đến
0, 5cm và 0,1kg.
– Chỉ số BMI được tính theo công thức: Cân nặng (Kg)
BMI =
[Chiều cao (m)2]
– Bề dày lớp mỡ dưới da được đo bằng compa loại Harpender Skilfold Caliper chính xác đến 0,1mm, đo ở bên phải của đối tượng và đo ở 5 điểm:
+ Điểm G1: Bên ngoài mỏm cùng vai.
+ Điểm I15: Sau – giữa cánh tay.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích