SỰ THAY ĐỔI TRÊN PHIM SỌ NGHIÊNG CỦA MÔ CỨNG VÀ MÔ MỀM SAU PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH MẤU TIỀN HÀM ĐIỀU TRỊ VẨU HAI HÀM
SỰ THAY ĐỔI TRÊN PHIM SỌ NGHIÊNG CỦA MÔ CỨNG VÀ MÔ MỀM SAU PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH MẤU TIỀN HÀM ĐIỀU TRỊ VẨU HAI HÀM
Lê Thị Thu Hải1, Nguyễn Thị Hồng Minh2, Võ thị Thúy Hồng2
1 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
2 Bệnh viện Răng Hàm Mặt TƯ Hà Nội
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Nhận xét sự thay đổi trên phim sọ nghiêng của mô cứng và mô mềm sau phẫu thuật chỉnh hình mấu tiền hàm điều trị vẩu hai hàm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh được thực hiện trên phim sọ nghiêng trước mổ và sau mổ của 21 bệnh nhân vẩu hai hàm (21 nữ, 0 nam) được điều trị chỉnh hình mấu tiền hàm tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt trung ương Hà Nội và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 2/2021. Nghiên cứu mô tả sự thay đổi các chỉ số và điểm mốc trên 21 cặp phim sọ nghiêng trước và sau phẫu thuật chỉnh hình mấu tiền hàm điều trị vẩu hai hàm. Kết quả: Góc SNA, SNB giảm trung bình lần lượt 3,8° và 2,8°. Góc trục răng cửa trên (I/MxP) và răng cửa dưới (IMPA) giảm trung bình lần lượt 23,1° và 9,5°. Góc liên răng cửa (IIA) tăng trung bình 14°. Độ nhô răng cửa hàm trên (1u-NA) và hàm dưới (1l-NB) giảm trung bình lần lượt 1,3mm và 0,8mm, cắn chùm giảm 0,5 mm, độ cắn chìa không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê. Góc mũi môi và góc Z tăng trung bình lần lượt 16,5° và 8,1°, góc lồi mặt N’SnPog’ không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê. Độ nhô môi trên và môi dưới (khoảng cách tới đường E) giảm trung bình lần lượt 1,8 mm và 3,6 mm. Các điểm mốc mô cứng ANS, Is, Ii lùi trung bình theo trục X lần lượt 6,74;8,04 và 6,70mm. Các điểm mốc mô mềm Prn, Cm, Sn, Ls, Li lùi trung bình theo trục X lần lượt 2,27; 2,77; 3,58; 6,25 và 7,15mm. Các điểm mốc không có sự thay đổi khoảng cách có ý nghĩa thống kê theo trục Y. Tỉ lệ di chuyển mô mềm theo mô cứng ở hàm trên và hàm dưới trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là 77% và 105%. Kết luận: Phẫu thuật chỉnh hình mấu tiền hàm là một phương pháp điều trị có tác dụng đẩy lùi các cấu trúc mô cứng và mô mềm hiệu quả trong điều trị vẩu hai hàm.
Vẩu hai hàm được đặc trưng bởi sự nhô, nghiêng ngoài của răng cửa hàm trên, răng cửa hàm dưới, môi nhô, mặt nghiêng lồi và xếp hạng thứ 6/7 về nhu cầu điều trị thẩm mĩ trong các kiểu mặt nghiêng1. Kiểu mặt này thường thấy ở người châu Á và người Mĩ gốc Phi. Chính vì vậy, nhu cầu điều trị vẩu hai hàm của người Việt Nam là rất lớn.Phẫu thuật chỉnh hình mấu tiền hàm kết hợp nắn chỉnh có ưu điểm chính so với nắn chỉnh răng đơn thuần là khả năng rút ngắn thời gian điều trị và bệnh nhân có thể thấy sự thay đổi gần như ngay sau phẫu thuật đối với nhóm bệnh nhân vẩu xương nặng. Phim sọ nghiêng có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị các trường hợp bất cân xứng hàm mặt nói chung và vẩu hai hàm nói riêng. Để nâng cao tính chuẩn xác trong tiên lượng và lên kế hoạch phẫu thuật chỉnh hình hàm, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu đánh giá tương quan giữa sựthay đổi của mô cứng và mô mềm ởcác kĩ thuật cắt chỉnh xương hàm, tuy nhiên các nghiên cứu vềsựthay đổi đó trong phẫu thuật chỉnh hình mấu tiền hàm còn hiếm và chưa đầy đủ.Đặc biệt, tại Việt Nam số lượng nghiên cứu tổng hợp, đánh giá sự đáp ứng của mô mềm theo mô cứng còn ít. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này ới mục tiêu: Nhận xét sự thay đổi trên phim sọ nghiêng của mô cứng và mô mềm sau phẫu thuật chỉnh hình mấu tiền hàm điều trị vẩu hai hàm
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Vẩu hai hàm, chỉnh hình mấu tiền hàm, phim sọ nghiêng
Tài liệu tham khảo
1. Soh J., Chew M.T. and Wong H.B. (2007), An Asian community’s perspective on facial profile attractiveness. Community Dentistry and Oral Epidemiology. 35(1), 18-24.
2. Lee J.K., Chung K.R. and Baek S.H. (2007), Treatment outcomes of orthodontic treatment, corticotomy-assisted orthodontic treatment, and anterior segmental osteotomy for bimaxillary dentoalveolar protrusion. Plast Reconstr Surg. 120(4), 1027-1036.
3. Kim J.R., Son W.S. and Lee S.G. (2002), A retrospective analysis of 20 surgically corrected bimaxillary protrusion patients. Int J Adult Orthodon Orthognath Surg. 17(1), 23-27.
4. Nadkarni P.G. (1986), Soft tissue profile changes associated with orthognathic surgery for bimaxillary protrusion. J Oral Maxillofac Surg. 44(11), 851-854.
5. Nguyễn Tài Sơn và Lê Tấn Hùng (2017), Đánh giá những thay đổi ở mô mềm và mô cứng sau thủ thuật cắt phân đoạn phía trước xương hàm trên và hàm dưới. Tạp chí Y Dược lâm sàng 108. 12(2), 70-75.
6. Phạm Như Hải (2015), Nghiên cứu bước đầu điều trị phẫu thuật chữa vẩu xương ổ răng 2 hàm bằng mở xương ổ dưới chóp chân răng tại Bệnh viện Việt Nam Cu Ba, Hà Nội. Y học Việt Nam (1), 75-79.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com