Sự xuất hiện của receptor b1 Bradykinin trên tiêu bản giải phẫu bệnh của bệnh nhân ghép Thận

Sự xuất hiện của receptor b1 Bradykinin trên tiêu bản giải phẫu bệnh của bệnh nhân ghép Thận

Tỷ lệ bệnh thận mạn không ngừng tăng trên thế giới. Tại Pháp số bệnh nhân bị ghép thận đã không ngừng tăng từ những năm 80 và đạt con số kỷ lục vào năm 1991 (3572 trường hợp) tuy nhiên cải thiện tỷ lệ sống của quả thận ghép sau 5 năm còn chưa được tốt do bệnh thận mạn trên quả thận ghép liên quan tới mất chức năng thận ghép với tổn thương xơ tổ chức kẽ. Biểu hiện lâm sàng gồm xuất hiện protein niệu, tăng huyết áp và thay đổi chức năng lọc cầu thận. Các yếu tố ảnh hưởng có thể là các yếu tố không miễn dịch  (chậm  chức  năng  lọc  cầu  thận,  tăng huyết áp,  loạn  mỡ  máu,  đái  tháo  đường, ngộ độc thận mạn do dùng thuốc antical- cineurines)  và  do  yếu  tố  miễn  dịch  (thải ghép cấp, thuốc ức chế miễn dịch). Thải ghép cấp xảy ra chủ yếu trong 6 tháng đầu của ghép thận. Thải ghép cấp là một trong các  yếu tố chính gây bệnh thận mạn của quả thận ghép. Có thật sự tồn tại một yếu tố tiền viêm trước khi thận bị xơ hay không? Có thể điều trị phòng hiện tượng viêm đó để giúp kéo dài đời sống quả thận ghép hay không?
RB1 là một peptid không xuất hiện trong điều kiện sinh lý bình thường mà chỉ tồn tại trong điều kiện viêm như viêm do nội độc tố, do nhiễm trùng… Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên động vật bị hội chứng đoạn nối được dùng thuốc chẹn RB1 làm giảm hiện tượng viêm. Theo nghiên cứu của Klein năm 2009  khi  sử  dụng  thuốc  chẹn  RB1  bằng đường uống đã làm ổn định tình trạng viêm gây giảm myofibroblasts và giảm xơ [1]. Luôn xuất hiện các câu hỏi cho các nhà lâm sàng về  vai trò của RB1 trong thải ghép, nhiễm trùng quả thận ghép do vi khuẩn, cytomega- lovirus (CMV), độc thận ghép do dùng cyc- losporin… Từ trước đến nay chưa hề có công trình nào nghiên cứu về vai trò của RB1 trên thận ghép ở người, chính vì vậy chúng tôi tiến hành công trình này nhằm: Nghiên cứu sự xuất hiện RB1 trên tiêu bản sinh thiết thận ghép ở người.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
Nhóm bệnh: 56 tiêu bản sinh thiết của 15 bệnh nhân ghép thận được theo dõi tại bệnh viện Rangueil, Toulouse, Pháp. Tất cả các bệnh nhân này đều có phản ứng hợp chéo (crossmatch) âm tính lúc ghép.
Những bệnh nhân này đều có được lần sinh thiết lúc tháo cặp clamp ở trong phòng mổ, những tiêu bản sinh thiết khi bệnh nhân bị thoái hóa chức năng thận, những mảnh sinh thiết theo dõi điều trị chống thải ghép, những tiêu bản sinh thiết một cách hệ thống vào lúc 6 và 12 tháng sau ghép thận mà không có thoái hóa chức năng thận. Chúng tôi theo dõi tiến triển của sự xuất hiện RB1 trên từng bệnh nhân, và đều được so sánh với nhóm chứng.
Tất cả bệnh nhân đều được dùng thuốc ức chế miễn dịch ban đầu gồm tacrolimus (hoặc ciclosporine A) hoặc/và mycophénolate mofétil và/hoặc sirolimus và prednisolone cùng với thuốc ức chế miễn dịch ban đầu  gồm huyết thanh anti-lymphocytaire, polyclonal (thymoglobuline) hoặc monoclonal anti-CD25.
Nhóm chứng: gồm 15 tiêu bản sinh thết của tiêu bản thận vùng lành trong tiêu bản cắt thận do u thận.
2.    Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang các tiêu bản sinh thiết của bệnh nhân ghép thận
Các chỉ số nghiên cứu: tuổi, giới, ngày ghép, nguồn gốc quả thận ghép (người cho sống, người cho chết), ngày và nguyên nhân lọc máu, huyết áp lúc sinh thiết thận, tỷ lệ kháng thể kháng HLA (quá khứ và hiện tại), tỷ lệ hòa hợp HLA A,B  và DR, thời gian trở lại chức năng thận, thuốc điều trị thải ghép và thuốc chống tăng huyết áp.
Nồng độ creatinin máu tính bằng đơn vị µmol/l, được làm theo phương pháp Jaffé.
Đo nồng độ các thuốc Ciclosporine A, Tac- rolimus và Sirolimus được thực hiện tại phòng xét nghiệm độc tố của bệnh viện Purpan (Toulouse, Pháp) bằng kỹ thuật miễn dịch enzym (immuno-enzymatiques) tự động.
Phân nhóm

Sau  phân  tích  mô  bệnh  học,  các  bệnh nhân được chia thành 3 nhóm theo phân loại Banff (1997). Nhóm “bình thường” (mảnh sinh thiết thường quy vào lúc 6 tháng và 1 năm không có thay đổi chức năng thận) (5 tiêu bản), nhóm “thải ghép” (mảnh sinh thiết có thải ghép dịch thể hoặc tế bào) (8 tiêu bản), và nhóm “nguyên nhân khác” (tiêu bản thay đổi chức năng quả thận ghép nhưng không có thải ghép) (9 tiêu bản). Cho mỗi nhóm mỗi bệnh nhân gồm các bản sinh thiết tại các thời điểm khác nhau được nghiên cứu: mảnh sinh thiết  lúc  tháo  cặp  clamp  trong  phòng  mổ, mảnh sinh thiết khi có thay đổi chức năng của quả thận ghép (thải ghép cấp, hoại tử ống thận cấp…); mảnh sinh thiết khi nghi ngờ có bệnh thận mạn của quả thận ghép; mảnh sinh thiết thực hiện một cách hệ thống vào lúc 6 tháng hoặc vào lúc 1 năm.
Mục tiêu nhằm nghiên cứu sự xuất hiện receptor B1 bradykinin (RB1) trên tiêu bản sinh thiết thận ghép ở người với phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, đo sự xuất hiện RB1 trên 56 tiêu bản của 15 bệnh nhân ghép thận ở bệnh viện Rangueil, Pháp từ 1/1/2006 đến 31/12/2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy RB1 không xuất hiện ở nhóm chứng, RB1 tăng nhẹ ở nhóm tháo cặp clamp (p < 0,0001). RB1 tăng rõ rệt ở nhóm nguyên nhân và đặc biệt cao ở nhóm thải ghép. Có mối liên quan thuận giữa RB1 và nồng độ creatinin máu. RB1 tăng khi hiện tượng viêm tăng. RB1 tăng sau điều trị thải ghép ở 2/9 bệnh nhân và suy chức năng thận ghép sau này. 7/9 bệnh nhân có RB1 giảm sau điều trị và chức năng thận ghép hiện vẫn ổn định. Kết luận: xuất hiện RB1 trong các tổ chức thận ghép bị tổn thương tăng cao có ý nghĩa khi viêm nhiều và khi chức năng thận thay đổi. RB1 giảm sau điều trị thì chức năng thận ổn định, còn RB1 tăng liên tục thì chức năng thận suy không hồi phục.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment