Suy giảm chức năng thần kinh trong phản ứng phong
Việt Nam cùng với các nước trên thế giới nỗ lực trong kiểm soát bệnh phong nhưng tổn thương thần kinh dẫn đến suy giảm chức năng thần kinh (CNTK) và tàn phế vĩnh viễn là vấn đề lớn trong bệnh phong. M. Leprae tấn công thần kinh ngoại biên gây tổn thương và làm tàn phế xảy ra rất chậm, nhưng tổn thương thần kinh trong phản ứng phong xảy ra rất nhanh. Sự phá hủy mô thần kinh qua trung gian miễn dịch quá nhanh đến nỗi có thể gây liệt nhiều dây thần kinh ngoại biên trong vòng 24 giờ.
Theo nghiên cứu của Paul Saunderson tại Ethiopia [3] 16,5% bệnh nhân phong có phản ứng
đảo nghịch (Reversal reaction = RR). Paul Saunder- son nghiên cứu tại Ethiopia thì hồng ban nút (Erythema Nodosum Leprosum = ENL) trong nhóm bệnh nhiều khuẩn (Multibacillary = MB) 5,3% và theo một số tác giả khác thì tỷ lệ này tại Brazil 31%, tại Nepal 19% và tại Thái Lan là 12% [4].
Để có cái nhìn thực tế về tình hình suy giảm CNTK trong phản ứng phong cũng như đánh giá đúng mức sự nguy hiểm của cơn phản ứng phong, chúng tôi nghiên cứu đề tài này tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu:
Khảo sát tình trạng suy giảm CNTK trong phản ứng phong.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân phong mới đăng ký điều trị từ ngày 01/ 01/ 96 đến 31/ 12/ 2000 tại 22 quận huyện của TP.HCM có cơn phản ứng phong và có đánh giá CNTK khi xảy ra cơn phản ứng
2. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang hồi cứu
Số liệu thu thập từ bệnh án về tuổi, giới, nghề nghiệp, nhóm bệnh, thể bệnh, tình trạng phản ứng …và từ phiếu trắc nghiệm cơ và cảm giác của ILEP về số điểm mất cảm giác lòng bàn tay, bàn chân ứng với dây thần kinh (TK) chi phối như TK trụ, TK giữa, TK chày sau khi làm trắc nghiệm cảm giác (ST: sensitivity test), cũng như sức cơ của các cơ ứng với các TK mặt, TK trụ, TK giữa và TK hông kheo ngòai khi trắc nghiệm cơ (VMT: voluntary muscle test).
Bệnh nhân được đánh giá có suy giảm CNTK khi có 1 hay cả 2 điều kiện sau:
(1) Mất 2 hoặc nhiều điểm cảm giác hơn so với trước đó.
(2) Sức cơ giảm 1 hoặc nhiều bậc so với trước đó. Riêng TK mặt là số mm tăng ≥ 1mm của
khoảng hở giữa hai mi so với trước đó.
* Nếu không có VMT và ST trước đó, bệnh nhân được đánh giá dựa vào bệnh sử và VMT và ST hiện tại.
Các dữ liệu được nhập và phân tích bằng SPSS
for windows. Kiểm định thống kê khi bình phương (÷2), OR và khoảng tin cậy 95% (95% CI) để tìm mối liên hệ giữa các yếu tố.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích