SUY THẤT PHẢI CẤP DO TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI SAU PHẪU THUẬT BỆNH TIM BẩM SINH TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI
Tăng áp động mạch phổi là một nhóm bệnh đặc trưng bởi sự tăng, tiến triển kháng trở mạch phổi dẫn tới suy tim phải và tử vong sớm [4]. Đời sống trung bình của người bệnh kể từ lúc chẩn đoán TAĐMP không rõ căn nguyên (tiên phát) là 2,8 năm [4]. Bệnh tim bẩm sinh (TBS) gây TAĐMP chiếm 50% các trường hợp [7]. TAĐMP trong TBS có luồng thông chủ phổi gây suy tim phải, giai đoạn muộn gây hội chứng Eisenmenger với đặc điểm Shunt đảo chiều, tím và suy tim toàn bộ [2]. Trên thế giới, có tới 5 -10% bệnh nhân TBS không được can thiệp, phẫu thuật hoặc có can thiệp, phẫu thuật nhưng muộn [6]. Ở Việt Nam, số bệnh nhân TBS tăng ALĐMP nặng cần phẫu thuật còn khá lớn và nguy cơ tử vong cao sau mổ. Tại bệnh viện Tim Hà Nội đã có BN suy tim phải cấp do TAĐMP và tử vong sau phẫu thuật. Hiểu biết về suy tim phải cấp và vấn đề TAĐMP sau phẫu thuật tim không nhiều, vì vậy nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: theo dõi biến đổi ALĐMP và một số đặc điểm lâm sàng của suy thất phải cấp do cơn tăng áp động mạch phổi sau phẫu thuật.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 27 bệnh nhân được điều trị phẫu thuật tại bệnh viện Tim Hà Nội (từ tháng 3 năm 2009 đến tháng 8 năm 2010).
Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân bị TBS có kết quả thông tim hoặc siêu âm (SA) có áp lực trung bình động mạch phổi (PAPm) ≥ 45mmHg. Đặt catheter động mạch phổi qua thành ngực trong phẫu thuật để theo dõi ALĐMP.
Tiêu chuẩn loại trừ: TAĐMP không do TBS; không đo ALĐMP xâm lấn.
2. Phương pháp: Đây là NC tiến cứu, mô tả so sánh cặp, theo dõi dọc theo thời gian (sử dụng SPSS.16).
3. Quy trình, chỉ tiêu nghiên cứu và đánh giá
Phiếu thu thập thông tin gồm họ tên, tuổi, giới, địa chỉ, biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng (siêu âm, thông tim, XQ lồng ngực, điện tim) trước mổ; chẩn đoán; cách thức mổ, thời gian chạy máy, cặp động mạch chủ, thay đổi ALĐMP, yếu tố khởi phát và đặc điểm cơn TAĐMP gây suy tim phải cấp.
Phân loại TAĐMP nặng khi PAPm ≥ 45 mmHg, TAĐMP trung bình khi PAPm 35 – 45 mmHg và TAĐMP nhẹ nếu PAPm 25 – 35 mmHg [5, 8]. Cơn tăng áp phổi cấp (pulmonary hy- pertensive crisis) được định nghĩa là tình trạng tăng ALĐMP >75% huyết áp hệ thống. Suy tim phải cấp do cơn TAĐMP thường xảy ra sau phẫu thuật tim giai đoạn hồi sức với đặc điểm ALĐMP cao, tụt SpO2, tụt huyết áp hệ thống và cuối cùng mạch chậm, suy tim toàn bộ [7]. Tình trạng tăng áp phổi kéo dài (persistent pulmonary hypertension) sau phẫu thuật được định nghĩa là tình trạng ALĐMP tâm thu lớn hơn 50% huyết áp tâm thu hệ thống và kéo dài trên 6 giờ sau phẫu thuật [5]. Kỹ thuật đặt catheter động mạch phổi trong phẫu thuật: Catheter tĩnh mạch trung tâm đặt vào động mạch phổi qua phễu thất phải nối với hệ thống đo huyết áp xâm lấn. Catheter thường được rút sau 72 giờ hoặc khi không còn chỉ định theo dõi ALĐMP liên tục.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu những biến đổi áp lực động mạch phổi (ALĐMP) và một số đặc điểm suy thất phải cấp do tăng áp động mạch phổi (TAĐMP) sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy, ALĐMP giảm PAPs từ 79,5 ±13 còn 44 ± 16,1mmHg (p < 0.001), PAPm từ 54,9 ± 11,8 còn 33,1 ± 13,2mmHg (p < 0.001), PAPd từ 38,3 ±13,4 còn 24,4 ±11,3mmHg (p < 0.001) sau phẫu thuật. Suy thất phải cấp do TAĐMP 5/27 bệnh nhân (18,5%), trong đó 1 bệnh nhân tử vong sau mở xương ức (3,7%). Từ đó có thể kết luận, suy tim phải cấp do cơn tăng áp động mạch phổi có nguy cơ tử vong cao sau phẫu thuật bệnh tim bẩm sinh tăng áp động mạch phổi nặng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích