Tác dụng của biện pháp đa can thiệp đốl vớl kiên thức và thực hành của nhân viên bán thuốc tại các nhà thuốc tư ở Hà Nội

Tác dụng của biện pháp đa can thiệp đốl vớl kiên thức và thực hành của nhân viên bán thuốc tại các nhà thuốc tư ở Hà Nội

Nghiên cứu này đánh giá tác dụng của biên pháp đa can thiệp đối với kiến thức và thực hành của nhân viên bán thuốc tại các nhà thuốc tư ở Hà Nôi. 68 nhà thuốc tư đã được chọn để nghiên cứu. Bốn tình huống được lựa chọn để đo lường kiến thức và thực hành của nhân viên bán thuốc là Xử lý bệnh nhân nam mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD); trẻ em dưới 5 tuổi nhiễm khuẩn hô hấp trên (NKHHT); khách hàng mua prednisolon không đơn và khách hàng mua cefalecin không đơn với liều thấp. Ba biện pháp can thiệp được thực hiện là thúc đẩy thực hiện qui chế, cung cấp kiến thức và giáo dục đồng nghiệp. Kiến thức của nhân viên bán hàng được đo lường bằng cách phỏng vấn trực tiếp. Thực hành của nhân viên bán hàng được đo lường bằng phương pháp đóng vai khách hàng. Kết quả là cả kiến thức và thực hành của nhân viên bán thuốc đều được nâng cao. Đối với bệnh LTQĐTD, số người được phỏng vấn trả lời là sẽ khuyên bệnh nhân dùng bao cao su tăng lên, số lượt khách hàng được khuyên đi khám bệnh và số trường hợp được điều trị đúng tăng lên. Đối với NKHHT, số người được phỏng vấn trả lời là sẽ hỏi về triệu chứng sốt tăng lên và số người nói sẽ bán kháng sinh lại giảm đi. Trên thực tế, số trường hợp bán kháng sinh cho bệnh nhân NKHHT giảm và số lần hỏi về tình trạng thở của bệnh nhân tăng lên. Đối với tình huống khách hàng yêu cầu bán prednisolon và cefalecin không có đơn, số người trả lời là sẽ không bán vài viên cefalecin tăng lên và thực tế các nhân viên bán thuốc cũng giảm việc bán hai loại thuốc này đồng thời số lần hỏi về đơn thuốc lại tăng lên.

 
I.    ĐẶT VẤN ĐỀ.
Thuốc là một trong những yếu tố quan trọng trong phòng và chữa bênh chăm sóc sức khoẻ. Chi phí về thuốc chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng chi phí cho chăm sóc sức khoẻ, đạc biệt đối với các nước đang phát triển. ở Việt Nam, chi phí về thuốc chiếm 90% tổng chi phí hộ gia đình cho sức khoẻ [4]. Thuốc kháng sinh đã làm thay đổi cơ bản việc cứu chữa những bệnh nhiễm trùng và có vai trò quan trọng trong việc làm giảm tỷ lệ tỷ vong. Kể từ khi phát hiện ra kháng sinh, doanh số về kháng sinh trên toàn cẩu ngày càng tăng. Chỉ tính riêng năm 1997, con số này đã lên tới 17 tỷ Đôla Mỹ [5]. Tuy nhiên viêc sử dụng thuốc nói chung và sử dụng kháng sinh nói riêng còn rất nhiều điều bất hợp lý. Ước tính khoảng 50% số kháng sinh sử dụng ở các nước phát triển là bất hợp lý và tỷ lệ này còn cao hơn đối với các nước đang phát triển [6]. Sử dụng kháng sinh không hợp lý là một trong các lý do dần đến kháng kháng sinh.
Việt Nam cũng giống như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, với việc cải tổ ngành y tế, nhà thuốc tư đã phát triển mạnh mẽ, trở thành điểm lựa chọn đẩu tiên của người dân khi đau ốm [4]. Người bán thuốc nhiều khi làm cả việc không được phép đó là kê đơn cho người bệnh. Tuy nhiên do tính chất thương mại của nhà thuốc tư, nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cũng như trên thế giới chỉ ra rằng việc “kê đơn” tại các nhà thuốc tư nhiều khi không hợp lý, dần dến lãng phí nguồn lực, thậm chí nguy hại.
Hệ thống nhà thuốc tư ở Hà Nội đã phát triển nhanh chóng, từ hơn hai trăm nhà thuốc tư năm 1989, đến năm 2002 đã lên đến 1727, chiếm 22% tổng số nhà thuốc tư trong toàn
quốc [2], cung ứng khoảng 72% tổng số thuốc bán lẻ ở Hà Nôi [1]. Theo một nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Chúc và Goran Tomson năm 1995, 99% số’ người đến mua thuốc ở các nhà thuốc tư là không có đơn [7] như vậy việc sử dụng thuốc của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức, trình độ của người bán thuốc. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đa can thiệp nhằm đánh giá sự thay đổi về kiến thức và thực hành của nhân viên bán thuốc trước và sau can thiệp bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và đóng vai khác hàng.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cúu
Đối tượng nghiên cứu: Nhân viên bán thuốc thuộc 68 nhà thuốc đã được chọn
Chọn mầu và cỡ mầu: Lựa chọn ngầu nhiên từ 789 nhà thuốc tư thuộc nội thành Hà Nội 34 cạp (68) nhà thuốc tư. Trong quá trình nghiên cứu một số nhà thuốc đóng cửa, nhà thuốc cùng cạp cũng bị loại khỏi mầu, còn lại 30 cạp (60) nhà thuốc.
Tình huống lựa chọn để tiến hành can thiệp: (1) Xử lý tình huống trẻ dưới 5 tuổi nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) (2) Xử lý bệnh nhân nam mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLTQĐTD). (3) Xử lý tình huống khách hàng yêu cẩu bán cefalecin không có đơn và (4) Xử lý tình huống bệnh nhân yêu cẩu bán prednisolon không có đơn. Bốn tình huống này đều hay gạp phải ở các điểm bán thuốc, đòi hỏi nhân viên bán thuốc phải có đủ trình độ và đạo đức nghề nghiệp để xử lý thích hợp.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment