TÁC DỤNG CỦA VÉC-NI SHELLAC F TRÊN TÍNH THẤM NGÀ RĂNG NGHIÊN CỨU IN VITRO
Lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1963, thuyết thủy động của Brannstrom là thuyết được chấp nhận và áp dụng nhiều nhất trong việc giải thích hiện tượng nhạy cảm ngà cũng như trong ứng dụng nghiên cứu về tính thấm của ngà răng, các yếu tố ảnh hưởng và tác dụng của vật liệu. Mọi yếu tố gây dịch chuyển dịch trong ống ngà đều có thể kích thích các sợi thần kinh và gây cảm giác đau. Các yếu tố như nhiệt độ, hiện tượng bay hơi, cọ xát, hay chênh lệch thẩm thấu đều có thể tạo ra một dòng dịch chuyển dịch trong lòng các ống ngà.
Các vật liệu chứa fluoride hoặc oxalate, hoặc kết hợp cả hai dạng hoạt chất này điều trị nhạy cảm ngà theo cơ chế hóa học. Vật liệu chứa sodium fluoride có khả năng bít các ống ngà thông qua cơ chế lắng đọng tinh thể calcium fluoride và các muối khoáng khác tại đầu ống ngà mở. Có nhiều dạng vật liệu có fluoride, trong đó véc-ni có fluoride thường được sử dụng trong điều trị nhạy cảm ngà cổ răng.
Thử nghiệm này được thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh giá in vitro tác dụng trên tính thấm ngà răng của véc-ni Shellac F, so sánh với véc-ni Duraphat và Isodan.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁ
1. Đối tượng
Shellac F: sodium fluoride (5%), ethanol, aceton, gum lac biến tính epoxy, silica.Duraphat® (Colgate): sodium fluoride (5%),ethanol (96%), sáp ong trắng (E901), gum lac (E904), colophan, mastic, saccharin (E954), hương dâu.Isodan (Septodont): potassium nitrate, HEMA, sodium fluoride, các chất phụ gia.
Đĩa ngà được chuẩn bị bằng máy cắt mô cứng Isometd (Buehler Ltd., Lake Bluff, IL, USA), xử lý theo quy trình của Nakabayashi.
2. Phương pháp
Thử nghiệm được thực hiện trên mẫu gồm 60 răng khôn đã đóng chóp nhưng chưa mọc, được nhổ phẫu thuật còn nguyên vẹn. Sau khi nhổ, răng được bảo quản trong dung dịch chloramine T 1% ở nhiệt độ 40C không quá ba tháng. Các răng được phân ngẫu nhiên thànhba nhóm, mỗi nhóm 20 răng: (1) Shellac F, (2)Duraphat®, (3) Isodan.
Quy trình thử nghiệm được thực hiện theo quy trình thử tính thấm qua đĩa ngà sử dụng buồng lắp ghép, được mô tả năm 1981 bởi Greenhill và Pashley. Các đĩa ngà được chuẩn bị bằng máy cắt mô cứng Isometd (Buehler Ltd., Lake Bluff, IL, USA), có nước làm mát. Sau đó, đĩa ngà được xử lý theo quy trình của Nakabayashi. Sau khi được cố định trên đế mẫu để có thể đặt vào buồng đo, các đĩa ngà được khảo sát tính thấm trên một vùng có diện tích 19,62 mm2.
Quy trình đo tính thấm đĩa ngà được thực hiện bằng hệ thống Flodece (De Marco Engineering, Geneva, Switzeland). Các đĩa ngà được đo tính thấm tại các thời điểm: (1) trước khi bôi vật liệu, (2) 24 giờ sau khi bôi vật liệu, (3) 7 ngày sau khi bôi vật liệu. Độ dẫn dịch của đĩa ngà sau khi bôi vật liệu được so sánh với độ dẫn dịch của đĩa ngà trước khi bôi vật liệu. Như vậy, mỗi đĩa ngà có một giá trị chứng của chính nó.
Đánh giá in vitro tác dụng của véc-ni Shellac F đối với tính thấm của ngà răng người, so sánh với véc-ni Duraphat và Isodan. Kết quả nghiên cứu cho thấy: cả ba vật liệu đều có tác dụng làm giảm tính thấm của ngà răng, mức độ giảm tính thấm lớn nhất thấy được sau 24 giờ với Shellac F (76,3 ± 28,1%) và sau 7 ngày với Isodan (77,6 ± 23,6%). Với Duraphat, mức độ giảm tính thấm không thay đổi giữa hai thời điểm sau khi bôi vật liệu. So sánh mức độ giảm tính thấm giữa ba vật liệu, không có khác biệt sau 24 giờ (p > 0,05) nhưng có khác biệt sau 7 ngày (p < 0,05). Từ đó có thể kết luận, Shellac F có tác dụng giảm tính thấm của ngà răng, không có khác biệt so với tác dụng của Duraphat và Isodan ở thời điểm 24 giờ; sau 7 ngày cả ba vật liệu vẫn còn thể hiện tác dụng, tuy nhiên sự khác biệt là có ý nghĩa.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích