Tác dụng giảm đau sau mổ cắt túi mật nội soi bằng phương pháp bơm bupivacain vào khoang phúc mạc phối hợp với gây tê tại chỗ rạch da bằng Bupivacain
Phẫu thuật nội soi là một thành tựu của y học hiện đại. Với các ưu điểm vượt trội như giảm tới mức tối đa các sang chấn do phẫu thuật, do đó giảm mức Đau sau phẫu thuật nội soi ổ bụng được đánh giá có mức độ trung bình, tuy vậy có những đặc trưng riêng và ảnh hưởng nhất định lên người bệnh [6].
Việc sử dụng bupivacain bơm vào khoang phúc mạc phối hợp với phương pháp gây tê tại chỗ bằng bupivacain tại những điểm chọc troca được áp dụng gần đây nhằm giảm đau sau phẫu thuật nội soi ổ bụng là một phương pháp gây tê vùng đơn giản, đem lại một số kết quả giảm đau khá khả quan [1 – 5]. Một số nghiên cứu cho thấy với phương pháp giảm đau này đa số bệnh nhân không cần hoặc cần dùng rất ít các thuốc giảm đau khác, đặc biệt là trong 6 giờ đầu [1, 2, 4, 5]. Tuy nhiên hiệu quả thực sự của phương pháp này vẫn còn được bàn cãi [6]. Tại Việt Nam chúng tôi chưa thấy có báo cáo nào về nghiên cứu áp dụng phương pháp giảm đau này. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với hai mục tiêu:
1. Đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ cắt túi mật nội soi bằng phương pháp bơm bupivacain vào khoang phúc mạc trong mổ phối hợp với gây tê tại chỗ rạch da.
2. Đánh giá một số tác dụng phụ của phương pháp giảm đau này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi cắt túi mật theo chương trình; ≥16 tuổi, không phân biệt giới tính; ASA I – II; Tinh thần bình thường, đồng ý hợp tác nghiên cứu; Không có chống chỉ định của bupivacain; Thời gian mổ từ 45 – 90 phút.
Tiêu chuẩn loại trừ: BN có tiền sử bệnh thần kinh hay tâm thần, có khó khăn trong giao tiếp; Bệnh đau mạn tính thường xuyên phải dùng thuốc giảm đau; Mạch chậm dưới 60 lần/phút; Tiền sử bệnh tim mạch; Biến chứng trong mổ như sốc, mất máu nhiều, hoặc phải chuyển thành mổ mở, phải mổ lại; Phẫu thuật phải đặt dẫn lưu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên, mù đơn và có đối chứng, tại phòng phẫu thuật nội soi, phòng hồi tỉnh, khoa phẫu thuật gan mật và khoa phẫu thuật bụng bệnh viện Việt Đức, từ tháng 3 – 7 năm 2006. Bệnh nhân được rút thăm ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm.
Nhóm chứng: Không dùng gì bơm vào khoang phúc mạc và chỗ rạch da. Nhóm nghiên cứu (NC): Sử dụng bupivacain 0,25 % tiêm dưới da tại những chỗ rạch da và bơm vào khoang phúc mạc.
Tiến hành nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được vô cảm bằng phương pháp gây mê nội khí quản. Khởi mê: Fentanyl 3 mg/kg, Propofol 2 mg/kg, Esmeron 0,6 mg/kg. Duy trì mê: Isofluran (Foran) MAC từ 0,8 – 1; Fentanyl 1 – 2 mg/kg nếu cần và liều fentanyl cuối cách ít nhất 20 phút trước khi kết thúc cuộc mổ.
Ở nhóm nghiên cứu, trước khi kết thúc phẫu thuật bơm Bupivacain 0,25% vào khoang phúc mạc: 10ml dưới vòm hoành trái, 10 ml dưới vòm hoành phải và 10 ml tại giường túi mật có nội soi hướng dẫn. Sau khi rút troca, tại nơi chọc được tiêm thấm bằng Bupivacain 0,25 % 3 – 4 ml cho mỗi vị trí.
Phẫu thuật nội soi cắt túi mật: Đường rạch da gồm một đường ở mũi ức, một đường dưới sườn phải và một đường ở rốn, kích thước 1 – 1,5cm, đủ để đưa troca vào. Áp lực bơm hơi ổ bụng trung bình 12 mmHg, tối đa 15 mmHg. Các phẫu thuật viên đều có kinh nghiệm.
Giảm đau sau mổ
Đánh giá trước khi giảm đau: điểm đau VAS, điểm an thần, tần số thở, SpO2, mạch, huyết áp.
Tiến hành giảm đau cho tất cả bệnh nhân nếu điểm VAS ≥ 4: Perfangan liều 15 mg/kg cân nặng truyền tĩnh mạch. Sau 30 phút đánh giá lại, nếu VAS ≥ 4 tiếp tục cho Morphin theo phương pháp chuẩn độ: tiêm từng liều nhỏ morphin 2 mg tĩnh mạch cách nhau 5 phút cho đến khi VAS < 4.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích