TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA HOÁ XẠ TRỊ TRÊN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN PHỔI GIAI ĐOẠN III BẰNG PHÁC ĐỒ CISPLATIN KẾT HỢP VỚI ETOPOSIDE HOẶC PEMETREXED

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA HOÁ XẠ TRỊ TRÊN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN PHỔI GIAI ĐOẠN III BẰNG PHÁC ĐỒ CISPLATIN KẾT HỢP VỚI ETOPOSIDE HOẶC PEMETREXED

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA HOÁ XẠ TRỊ TRÊN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN PHỔI GIAI ĐOẠN III BẰNG PHÁC ĐỒ CISPLATIN KẾT HỢP VỚI ETOPOSIDE HOẶC PEMETREXED
Nguyễn Thị Thái Hoà1, Trịnh Thế Cường2, Nguyễn Mai Lan3
1 Bệnh viện K
2 Bệnh viện E
3 Đại học Y Hà Nội
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Hoá xạ trị đồng thời là điều trị căn bản của ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không mổ được. Đối với ung thư biểu mô tuyến, phác đồ hoá trị thường được áp dụng trên thực tế lâm sàng tại Bệnh viện K là Etoposide – Cisplatin (EP) hoặc Pemetrexed – Cisplatin (PeC). Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tác dụng không mong muốn của hoá xạ trị đồng thời với 2 phác đồ EP và PeC. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu đánh giá tác dụng không mong muốn của 50 bệnh nhân điều trị phác đồ Etoposide – Cisplatin (EP) và 31 bệnh nhân điều trị phác đồ Pemetrexed – Cisplatin (PeC) đồng thời với tia xạ 3D cho ung thư biểu mô tuyến phổi giai đoạn III không mổ được. Kết quả: Tỷ lệ hạ huyết sắc tố, hạ bạch cầu trung tính và hạ tiểu cầu của phác đồ EP và PeC tương ứng là 76%, 84% và 28% và 51,6%, 41,9% và 12,9%. Tỷ lệ hạ huyết sắc tố và hạ bạch cầu trung tính của phác đồ PeC thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với EP. Tỷ lệ viêm phổi, viêm thực quản và khô da của hai phác đồ lần lượt là 22%, 66% và 62% với EP và 16,1%, 48,4% và 45,1% với PeC. Tỷ lệ mệt mỏi của phác đồ PeC 51,6% thấp hơn có ý nghĩa so với phác đồ EP là 84%. Kết luận: Phác đồ PeC có tỷ lệ mệt mỏi, hạ huyết sắc tố, hạ bạch cầu trung tính thấp hơn có ý nghĩa so với phác đồ EP.

Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm  tỷ  lệ  khoảng  80-85%  các  loại  ung  thư phổi, bao gồm 3 loại chính là ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô vảy, ung thư biểu mô tế bào lớn. Tại Việt Nam, giai đoạn III, IV chiếm tỷ lệ  cao.  Đối  với  UTPKTBN  giai  đoạn  III  không phẫu thuật được, điều trị tia xạ kết hợp vớihoá chất là lựa chọn căn bản và phổ biến. Qua phân tích tổng hợp so sánh hóa xạ trị đồng thời và hóa xạ trị tuần tự trong UTPKTBN tiến triển tại chỗ của Auperin và cộng sự (2010) đãchỉ ra lợi ích đáng kể của hóa xạ trị đồng thời so với hóa xạ trị tuần tự với lợi ích tuyệt đối thời gian sống thêm là  5,7%  (từ  18,1%  lên  23,8%)  sau  3  năm  và 4,5% sau 5 năm[1]. Thử nghiệm pha III của RTOG 9410 (2011) cho thấy thời gian sống thêm 5 năm của phácđồ hóa xạ đồng thời cao hơn có ý nghĩa thống kê so với hóa xạ tuần tự (15% và 16% ở hai nhánh đồng thời so với 10% ở nhánh hóa xạ tuần tự)[2]. Vì vậy, hóa xạ trị đồng thời được xem là liệu pháp điều trị chuẩn cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn III không phẫu thuật được.Tuy nhiên, việc điều trị kết hợp cũng mang đến nhiều tác dụng không mong muốn hơn so với tia xạ đơn thuần [3]. Đặc biệt hoá xạ trị đồng thời  cũng  có  có  thể  làm  tăng  tỷ  lệ  viêm  thực quản độ 3-4 so với hoá xạ tuần tự (từ 4% lên 18%,  p<0,0001)  

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment