TÁN SỎI THẬN QUA DA TRONG SỎI THẬN SAN HÔ
TÁN SỎI THẬN QUA DA TRONG SỎI THẬN SAN HÔ
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng , Trân Thanh Nhân*, Lê Anh Tuấn*, Chung Tuấn Khiêm*, Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Việt Cường
TÓM TẮT
Đặt vấn đề:Phẫuthuậttánsỏithậnqua dađãthànhthườngquytại Khoa-Bộ mônTiết niệubệnhviện
Bình Dân. Bài viết này giới thiệu loạt 28 bệnh nhân sỏi san hô thận được áp dụng kỹ thuật mổ này tại Trung tâm của chúng tôi.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 12/2006 đến 3/2011 tại Khoa Niệu C bệnh viện Bình Dân đã phẫu thuật tán sỏi qua da cho 28 bệnh nhân với sỏi san hô / bán san hô thận. Sau khi gây mê bệnh nhân được soi bàng quang để đặt thông niệu quản vào bể thận. Sau đó bệnh nhân được đặt nằm sấp để tạo đường hầm vào thận bằng kỹ thuật nong đường hầm biến đôi riêng với chọc dò đài thận dùng đường vào trên hoặc dưới sườn 12, dưới C-arm. Sau khi nong tạo đường hầm sẽ soi thận và tán sỏi bằng máy tán sỏi xung hơi rồi gắp mảnh sỏi bằng kềm. Đặt thông mở thận ra da. Đánh giá kết quả sớm ngay sau mô’ bằng phim KUB và / hoặc siêu âm.
Kết quả: Có 20 bệnh nhân nam (71,4%) và 8 nữ (28,6%), tuôi trung bình: 48,4 (28-62). Tám bệnh nhân mô’bên phải (28,6%), 20 mô’bên trái (71,4%). Hai trường hợp sạn tái phát (7,1%), 26 sạn mô’tân đâu (92,9%). Kích thước sạn trung bình: 31,4 mm (20-43). Mười tám trường hợp sạn san hô toàn phần (64,3%), 10 trường hợp sạn bán san hô (35,7%). UIV trước mô’ tất cả các trường hợp chức năng thận đêu tốt, 3 trường hợp thận không ứ nước (10,7%), 15 thận ứ nước độ I (53,6%), 9 thận ứ nước độ II (32,1%), 1 thận ứ nước độ III (3,6%). Sáu trường hợp dùng đường vào trên sườn (21,4%), 20 dùng đường vào dưới sườn (71,4%), 2 trường hợp phối hợp đường trên và dưới sườn với 2 đường hầm riệng biệt (7,1%). Hai mươi lăm trường hợp chỉ tạo một đường hầm (89,3%), 3 trường hợp phải tạo 2 đường hầm riêng biệt (10,7%). Năm trường hợp vào đài trên thận (17,9%), 11 vào đài giữa (39,3%), 9 vào đài dưới (32,1%), 2 kết hợp đài giữa và đài dưới (7,1%), 1 kết hợp đài trên và đài dưới (3,6%). Thời gian mô’ trung bình: 98,3 phút (60-180). Lượng máu mất trung bình: 308,3 mL (100-800). Thời gian rút thông thận trung bình: 5 ngày (3-10). Thời gian nằm viện sau mô’trung bình: 5,2 ngày (3-10). Bốn trường hợp chảy máu lúc mô’(14,3%) trong đó 1 trường hợp chảy máu nặng phải dừng phẫu thuật. Hai trường hợp phải truyền máu sau mô’ (7,1%). Kết quả điêu trị sỏi ngay sau mô: tốt (sạch sỏi): 14 (50%), khá (còn mảnh sỏi < 5mm): 6 (21,4%), trung bình (còn mảnh sỏi > 5mm, nhiêu mảnh): 8 (28,6%), trong đó 4 trường hợp được tán sỏi ngoài cơ thể sau mô’1 tháng, 3 trường hợp được soi thận tan hai sau 1-2 tuần, 1 trường hợp được soi thận lần hai và tán sỏi ngoài cơ thể bô sung.
Kết luận: Tán sỏi thận qua da trong sỏi san hô thận là một kỹ thuật khá phức tạp. Kết quả ban đãu của chúng tôi là đáng khích lệ và kết quả này khả quan hơn khi phối hợp với tán sỏi ngoài cơ thể. Tán sỏi thận qua da hoàn toàn có thể trở thành một lựa chọn thay thế cho mô’ mở trong sỏi thận san hô trong tương lai gàn trong điêu kiện Việt Nam.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất