Tăng Homocystein huyết thanh liên quan với xơ vữa động mạch ở bệnh nhân suy thận mạn
Suy thận mạn (STM) làm thận mất dần khả năng điều chỉnh thăng bằng nội mô, giảm và tiến đến mất khả năng bài tiết các chất cặn bã được sinh ra trong quá trình chuyển hóa. Suy thận nặng sẽ làm rối loạn khả năng điều hòa kiềm toan, điều hòa nước điện giải, gây tổn thương nhiều cơ quan nội tạng trong cơ thể và dẫn đến hàng loạt những biến loạn về sinh hóa cũng như lâm sàng của các cơ quan trong cơ thể, trong đó có sự biến đổi về nồng độ homocystein máu [1,5]. Những nghiên cứu gần đây cho thấy có mối tương quan giữa tăng homocystein toàn phần và bệnh lý xơ vữa mạch máu động mạch vành, động mạch cảnh và động mạch ngoại biên, các tác giả cho rằng rối loạn chức năng nội mạc, phì đại tế bào cơ trơn mạch máu, tăng hình thành các chất oxy hoá của lipid và tăng đông máu là các yếu tố chính gây nên tình trạng xơ vữa mạch máu này [9].
Tại Việt Nam đã có đề tài nghiên cứu về rối loạn homocystein ở bệnh nhân thận nhân tạo chu kỳ. Tuy nhiên, nghiên cứu đơn thuần xem xét sự biến đổi nồng độ homocystein huyết thanh trong STM nhưng chưa đề cập đến mối liên quan giữa sự biến đổi nồng độ homocystein huyết thanh với một số yếu tố nguy cơ tim mạch trong STM. Hơn thế nữa nếu ở giai đoạn suy thận sớm bệnh nhân chưa phải lọc máu thì sự biến đổi đó diễn ra như thế nào? Chính vì vậy nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu: 1) Khảo sát nồng độ homocystein huyết thanh ở bệnh nhân STM chưa điều trị thay thế. 2) Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ homocystein huyết thanh với độ dày lớp nội trung mạc của động mạch cảnh ở nhóm bệnh nhân nêu trên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
63 bệnh nhân được chẩn đoán STM chưa điều trị thay thế vào điều trị nội trú tại khoa Thận – Tiết niệu bệnh viện Bạch Mai bao gồm 34 nam và 29 nữ. Tiêu chuẩn chẩn đoán suy thận mạn: tổn thương thận kéo dài > 3 tháng, có giảm mức lọc cầu thận < 30 ml/phút.
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân có một trong các bệnh sau: bệnh lý ác tính, bệnh lý viêm mạn tính đi kèm, đang có viêm nhiễm cấp tính, suy thận cấp, bệnh gan nhiễm sắt, STM nhưng đã điều trị thay thế.
2. Phương pháp
– Sử dụng phương pháp tiến cứu mô tả cắt ngang.
– Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Thận -Tiết niệu bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2010 đến tháng 08/2010.
3. Quy trình
Bệnh nhân được hỏi và thăm khám theo một mẫu bệnh án riêng thiết kế phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu: Đo chiều cao, cân nặng, tiền sử bệnh tật…
Xét nghiệm cận lâm sàng
Cách lấy mẫu xét nghiệm:
+ Các mẫu máu nghiên cứu được lấy vào buổi sáng lúc đói, sau đó được đưa ngay tới phòng xét nghiệm trong vòng một vài phút và được bảo quản ở nhiệt độ – 300C cho đến thời điểm định lượng. Các thông số trong xét nghiệm máu cùng được lấy vào một thời điểm ở bệnh nhân chưa điều trị thay thế thận. Ngày lấy nước tiểu 24h đi định lượng một số chỉ số cùng ngày với lấy máu làm xét nghiệm.
Xét nghiệm:
+ Công thức máu: Số lượng hồng cầu, huyết sắc tố, số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu, số lượng tiểu cầu.
+ Sinh hóa máu: Urê, creatinin, acid uric, đường, điện giải đồ máu, SGOT, SGPT, protein toàn phần, albumin máu.
+ Định lượng nồng độ homocystein huyết thanh: trên hệ thống Bayer ADVIA Centaur tại khoa sinh hóa bệnh viện Bạch Mai theo phương pháp miễn dịch huỳnh quang.
+ Siêu âm doppler đo độ dày lớp nội trung mạc (NTM) của động mạch cảnh làm tại khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Bạch Mai và do một người làm duy nhất (ThS. Nguyễn Xuân Hiền).
4. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 18.0 để xử lý số liệu. Các thuật toán áp dụng: Sử dụng thuật toán T – test để đánh giá và so sánh các thông số thực nghiệm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Tìm mối tương quan giữa 2 biến bằng tương quan PEARSON ( -1 ≤ r ≤ 1).
Ở bệnh nhân suy thận mạn (STM ) giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ, tăng nồng độ homocystein toàn phần có liên quan với xơ vữa động mạch và huyết khối. Tuy nhiên ở bệnh nhân STM chưa lọc máu chưa được đề cập. Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát nồng độ homocystein huyết thanh ở bệnh nhân suy thận mạn chưa điều trị thay thế và tìm hiểu mối liên quan giữa độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh với nồng độ homocystein huyết thanh. Kết quả cho thấy, nồng độ homocystein ở BN STM là 26,39 ± 10,15 µmol/L cao hơn có ý nghĩa so với nhóm BN không STM (p < 0,001). Có mối liên quan giữa nồng độ homocystein huyết thanh với độ dày lớp nội trung mạc của động mạch cảnh theo phương trình tuyến tính : Độ dày nội trung mạc (NTM) = 0,62 + 0,01*hcy (r = 0,32; p < 0,05). Có sự rối loạn rõ rệt về nồng độ homocystein huyết thanh ở bệnh nhân suy thận mạn. Bệnh nhân có nồng độ homocystein huyết thanh tăng càng cao độ dày lớp nội trung mạc của động mạch cảnh càng dày.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích