Tăng tính đáp ứng phế quản trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ngoài đợt cấp

Tăng tính đáp ứng phế quản trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ngoài đợt cấp

Ở Việt Nam, nghiên cứu về tăng tính đáp ứng phế quản (TTĐƯPQ) trong BPTNMT chưa được đề cập tới dù nó đã được xác định là một cơ chế bệnh sinh của BPTNMT.Mục tiêu:(1) đánh giá TTĐƯPQ ngoài đợt cấp của BPTNMT bằng test Histamin; (2) xác định mối liên quan giữa TTĐƯPQ với một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng. Phương pháp:Test Histamin làm trên 88 đối tượng (43 bệnh nhân BPTNMT ngoài đợt cấp và 45 người khoẻ mạnh) ở 6 nồng độ khí dung (0,03; 0,06; 0,12; 0,25; 0,5; 1 mg/ml) theo phương pháp của Chai H (1975) [3]. Kết quả và kết luận:TTĐƯPQ gặp ở 63,12% và tập trung nhiều ở nồng độ thấp 0,03 – 0,12 mg/ml (53,5%). Tác dụng phụ chủ yếu của test là co thắt phế quản (44,19%), nhẹ, hết hoàn toàn sau khi hít salbutamol. Có sự tương quan chặt chẽ giữa liều tích luỹ với kết quả test Histamin, hiện tượng co thắt phế quản, nồng độ FEV1 (mức 50% số lý thuyết) với (r = – 0,93; – 0,73; 0,78 và p < 0,05); giữa kết quả Test và hiện tượng co thắt phế quản (r = 0,65 và p < 0,01)

TTĐƯPQ được xác định là một cơ chế bệnh sinh của BPTNMT [6]. Một vài nghiên cứu gần đây đã nhận thấy một điều lạ về lưu hành độ của TTĐƯPQ trên bệnh nhân mắc BPTNMT là tần suất xảy ra TTĐƯPQ dường như bằng hoặc thậm trí còn cao hơn ở bệnh nhân hen phế quản. Ở những bệnh nhân mắc BPTNMT giai đoạn sớm tỷ lệ TTĐƯPQ chiếm 46% tổng số các trường hợp có TTĐƯPQ [8]. Theo Hội nghiên cứu sức khoẻ phổi Mỹ thì tỷ lệ này dao động từ 25,4 – 47,8% [4]. Tỷ lệ này còn cao hơn đối với những bệnh nhân mắc BPTNMT giai đoạn nhẹ và dương tính với tác nhân kích thích phế quản (Methacholine) ở ngưỡng thấp 25 mg/ml (59 – 63% ở nam và 85 – 87% ở nữ) [4]. Những nhận định này càng ủng hộ cho “Giả thuyết người Hà Lan” (1960) về vai trò của TTĐƯPQ trong BPTNMT. Để góp phần tìm hiểu về mối quan hệ giữa TTĐƯPQ và BPTNMT ngoài đợt cấp, nghiên cứu này được thực hiện nhằm hai mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng tăng tính đáp ứng phế quản ngoài đợt cấp của BPTNMT bằng test histamin.
2. Xác định mối liên quan giữa tình trạng TTĐƯPQ với một số triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng ngoài đợt cấp củ a BPTNMT.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Đối tượng nghiên cứu
Gồm 88 người chia 2 nhóm: Nhó m bệnh chọn ngẫu nhiên 43 bệnh nhân (25 nam, 8 nữ) tuổi trung bình 70,56 ± 7,37 điều trị tại khoa Lao – Bệnh phổi Viện 103 từ tháng 7/2004 đến
6/2005 được xác định BPTNMT và chẩn đoán đợt cấp ổn định theo tiêu chuẩn của GOLD 2004; Nhóm chứng chọn ngẫu nhiên 45 nam giới khoẻ mạnh tuổi trung bình 53,96 ± 5,97 đến giám định sức khoẻ tại Hội đồng Giám định Y khoa Trung Ương, có hoặc không hút thuốc, không tiền sử dị ứng, hiện tại không mắc các bệnh dị ứng, hô hấp và bệnh tim mạch. Những người này được làm test histamin cùng thời điểm với nhóm BPTNMT. 
2. Phương pháp nghiên cứu Là nghiên cứu mô tả, tiến cứu, cắt ngang có đối chứng. Nghiên cứu lâm sàng: Đối tượng nghiên cứu TCNCYH (6) – 2006 được xác định các biểu hiện lâm sàng theo mẫu. Đo thông khí phổi: cho bệnh nhân BPTNMT (SVC và FVC) tại 2 thời điểm: Khi mới vào viện (trong đợt cấp) và sau khi đợ t cấp ổn định: Đo thông khí phổi và làm test hồi phục phế quản với Salbutamol để chẩn đoán xác định BPTNMT. Quy trình đo theo tiêu chuẩn Việt Nam và tham khảo tiêu chuẩn của Cộng đồng than thép châu Âu và Tổ chức Y tế Thế giới năm
1983 [1]. Test histamin: Test được làm cho nhóm chứng tại Viện Giám định Y khoa Trung ương, cho nhóm bệnh tại Khoa Lao và bệnh phổi,
Bệnh viện 103 theo phương pháp của Chai H và CS (1975) [3]). Test làm ở 6 nồng độ khí dung:
0,03; 0,06; 0,12; 0,25; 0,5; 1 mg/ml. Thời gian khí dung mỗi nồng độ là 5 nhịp thở bình thường.
Các đối tượng hoàn toàn tự nguyện làm test, đồng thời test được bộ môn khoa Lao và Bệnh phổi viện 103 và Viện Giám định Y khoa cho phép làm. Chỉ định của test: Bệnh nhân mắc
BPTNMT ở ngoài đợt cấp, ngừng dùng thuốc dãn phế quản nhóm xanthin hoặc beta 2 trước
khi làm test 24 giờ. Chống chỉ định của test: Người bị nhồi máu cơ tim cấp hoặc sau nhồi
máu cơ tim 6 tháng, đang sốt trên 38C, suy hô hấp (SpO2< 90%; PaO2< 60 mmHg), có rối loạn ý thức, tím tái… Tính liều tích luỹ theo phương pháp của Chai H và cộng sự (1975) [3]. Liều tích luỹ là tổng luỹ tích các liều khí dung từ thấp lên cao. Đánh giá kết quả: Test được coi là dương tính khi liều tích luỹ của histamin tại thời điểm làm giảm 20 % FEV1 so với trước khi khí dung (PC20) [3]. Số liệu được quản lý và tính toán trên phần mềm EPI INFO 6.04 của Tổ chức Y tế Thế giới (1994). Độ nhậy, độ đặc hiệu tính
theo công thức của Goldman.L. (1998).

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment