TẠO HÌNH KHÚC NỐI BỂ THẬN NIỆU QUẢN Ở TRẺ EM CÓ DÙNG THÔNG JJ
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tạo hình khúc nối bể thận- niệu quản trong bệnh thận nước ở trẻ em có dùng thông JJ.
Đối tương phương pháp nghiên cứu:Hồi cứu mô tả105 trường hợp tạo hình khúc nối bể thận niệu quản có đặt thông JJ xuôi dòng ở102 bệnh nhi trong 3 năm từ tháng 2/2008 đến 10/2010. Các thông số về tuổi chẩn đoán, tuổi phẫu thuật, biến chứng sớm và muộn sau phẫu thuật, thời gian dẫn lưu và thời gian nằm viện đều được ghi nhận.
Kết quả: Biến chứng liên quan thông JJ gồm: 6 trường hợp (5,7%) tiểu máu thoáng qua trong giai đoạn mang thông JJ, 5 trường hợp (4,7%) có thông lạc chỗ: 2 trường hợp đầu dưới thông JJ chạy xuống niệu đạo; 2 trường hợp đầu dưới thông nằm trong niệu quản; 1 trường hợp thông JJ lạc chỗtrong bàng quang, 1 trường hợp đặt JJ gây chít hẹp khúc nối bàng quang niệu; 1 trường hợp JJ lạc chỗ nằm trong niệu quản phải mở bể thận lấy thông. Có 3/105 trường hợp (2,7%) cần mổlại vì tắc lại khúc nối, 1/3 trường hợp này phải cắt thận. 102/105 kết quả tốt. Thời gian nằm viện trung bình là 6,2 ngày. Thời gian theo dõi từ6 tháng đến 3 năm.
Kết luận:Ngoài việc làm giảm biến chứng và thời gian nằm viện, thông JJ sử dụng trong tạo hình khúc nối bể thận niệu quản ở trẻ em an toàn và hiệu quả.
Phẫu thuật tạo hình bể thận niệu quản ngày càng hoàn thiện về kỹ thuật trong việc điều trịhẹp khúc nối bể thận niệu quản với tỉ lệ thành công 90-95%(2). Tuy nhiên vấn đề dẫn lưu hệ niệu hay không sau tạo hình khúc nối vẫn còn là một tranh cãi. Khi quyết định dẫn lưu thì có nhiều sự lựa chọn: Dẫn lưu trong thận(1)hay dẫn lưu từthận ra ngoài(3). Hiện có nhiều phẫu thuật viên bắt đầu thích đặt dẫn lưu trong thận hơn là dẫn lưu ngoài thận(1
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất