Thành tựu truyền máu thế kỷ XX các bước phát triển của truyền máu Việt Nam

Thành tựu truyền máu thế kỷ XX các bước phát triển của truyền máu Việt Nam

Để có các thành công ngày nay, truyền  máu đã trải qua bao thăng trầm. Bắt đầu từ thế kỷ XVII, khởi đầu bằng lời kêu cứu truyền máu của Florentin ở Francisco -1654 [12], lời kêu cứu này đã thức tỉnh sự chú ý của nhiều người đến cứu sống  các  bệnh  nhân  thiếu  máu  bằng  truyền máu. Cơ sở cho nghiên cứu về truyền máu được bắt đầu từ kết quả nghiên cứu giải phẫu của Williams Harvey (1628) đã chứng minh rằng máu chảy trong hệ tuần hoàn, có 2 hệ thống: Động mạch đẩy máu đi và tĩnh mạch đưa máu trở lại tim. Nhờ vậy có thể lấy máu ra khỏi cơ thể và cũng có thể đưa máu vào hệ tuần hoàn qua hệ thống mạch máu.

Từ hiểu biết trên đây, nhóm nghiên cứu của Richard Lower (1662 Oxford, Mỹ) đã nghiên cứu thực nghiệm bằng cách truyền các dịch vô hại vào tĩnh mạch của động vật, rồi ông lấy máu tự thân truyền cho chính động vật đó, tất cả đều vô hại. Sau đó nhóm nghiên cứu đã lấy máu từ động mạch của chó A truyền trực tiếp vào tĩnh mạch cho chó B. Sau truyền máu, chó B vẫn sống. Kết quả này đã đựợc đăng tải ở báo Phi- losophical Transfusion of the Royal Society (London 1665). Cũng trong thời gian này, các nhà nghiên cứu ở London cũng tiến hành các nghiên cứu tương tự. Ở Pháp, đựơc sự bảo trợ của Vua Louis XIV và viện Hàn lâm khoa học Paris, Danis đã tiến hành đầu tiên truyền máu động vật cho người. Danis đã lấy máu của Cừu non truyền cho người, đó là một cháu trai 15 tuổi bị thiếu máu (1667), có kết quả. Kết quả này đã khích lệ nhiều người nghiên cứu lấy máu của động vật khác loài truyền cho người, như máu dê, máu bê non. Nhưng tiếc thay, đây chỉ là một trường hợp đầu tiên có kết quả, các nghiên cứu sau này đều thất bại, hầu hết bệnh nhân tử vong do phản ứng truyền máu gây nên [16]. Vì vậy Chính phủ các nước đã ra lệnh cấm các nghiên cứu về truyền máu động vật cho người. Từ đây truyền máu đã bị lắng xuống kéo dài trong 150 năm (từ nửa cuối thế kỷ 17 đến hết thế kỷ 18).

Sang thế kỷ thứ XIX: Năm 1818 Blundell (1790 – 1877) đã làm sống lại truyền máu. Ông đã tiến hành truyền máu trực tiếp từ người sang người. Dùng kim chọc vào động mạch người cho,  qua  dây  dẫn  máu  chảy  vào  tĩnh  mạch người nhận. Sau đó ông đã cải tiến truyền máu bằng Syringe trên súc vật, kết quả cho thấy có thể áp dụng trên người.

Bằng cách ghi chép tỷ mỷ, sau nhiều thí nghiệm ông đã kết luận rằng, truyền máu động vật cho người là không thể đựơc, truyền máu người cho người có kết quả ở một số bệnh nhân. Kết quả này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố kỹ thuật, vấn đề đông máu, bơm tiêm truyền máu và sự khác nhau giữa các cá thể trong cùng một loài [12]… Đây là các nhận xét rất quan trọng, nhưng tử vong do truyền máu vẫn còn là điều bí ẩn.

Tới thế kỷ 20: Vấn đề bí ẩn của truyền máu đẫ được mở ra.

Công trình khoa học có giá trị nhất, lợi ích nhất trong truyền máu là sự phát minh ra các kháng nguyên hệ hồng cầu và nhóm máu của Karl Landsteiner (người Áo, 1868 – 1943).

+ Năm 1900, khi nghiên cứu quan hệ giữa hồng cầu và huyết thanh của người, Landsteiner nhận thấy huyết thanh của một số người làm ngưng kết hồng cầu của các cá thể khác. Sau hàng ngàn thí nghiệm, năm 1901 ông đã có nhận xét, huyết thanh của nhóm người (ký hiệu

A) gây ngưng kết hồng cầu của một nhóm người

khác (ký hiệu là B), nhưng không gây ngưng kết hồng cầu của người cùng nhóm A; hồng cầu của người nhóm A lại bị ngưng kết bởi huyết thanh người nhóm B. Huyết thanh của nhóm người thứ 3 (ký hiệu là C) lại gây ngưng kết hồng cầu của cả người nhóm A và B, ngược lại hồng cầu của người nhóm C không bị ngưng kết bởi huyết thanh của người nhóm A và B. Từ đó ông đã xây dựng được 3 nhóm người có đặc điểm ngưng kết riêng, đó là người có hồng cầu A thì trong huyết thanh không có ngưng kết tố A (nhóm A); người có hồng cầu B thì không có ngưng kết tố B; người có cả ngưng kết tố A và B trong huyết thanh thì hồng cầu không có kháng nguyên A và B (nhóm O). [10] Một năm sau (1902) Decastello đã chứng minh nhóm thứ 4, hồng cầu của người nhóm này không có ngưng kết tố A và B, nhưng lại có cả kháng nguyên A và kháng nguyên B. Như vậy Landsteiner và học trò đã xây dựng được 4 nhóm   máu A, B, AB và O, gọi tắt là hệ nhóm máu ABO. Từ đây ông đã đưa ra qui tắc truyền máu của hệ nhóm máu ABO. Tiếp theo (1913) Ottenberg đã chứng minh rằng, thử nghiệm trước truyền máu (Preliminary blood testing) đã bảo vệ đựơc các phản ứng do truyền máu và cũng từ đây công thức truyền máu do Ottenberg đề xuất đã được ứng dụng rộng rãi cho tới nay.

Phát minh của Landsteiner và các cộng tác của ông đã mở ra các điều bí ẩn về truyền máu người cho người gây tử vong, đồng thời ông đã tạo dựng các hướng nghiên cứu mới về: Miễn dịch huyết học, miễn dịch ghép, di truyền, nguồn gốc loài người và y học pháp lý. Giá trị lớn hơn là cứu hàng triệu triệu người thiếu máu nhờ  quy  tắc  truyền  máu  của  Landsteiner.Với phát minh vĩ đại này Landsteiner đã được tặng Giải thưởng Nobel y học, 1930 [12].

+ Từ năm1927 – 1947 Landsteiner và học trò phát hiện thêm các hệ nhóm máu ngoài ABO,

đó là M, N, P…và vào năm 1940 phát hiện hệ Rh (Rhesus). Đồng thời tác giả đã tạo được trên thực nghiệm kháng thể chống Rh bằng cách mẫm cảm hồng cầu Khỉ cho Thỏ, rồi thấy huyết thanh thỏ gây ngưng kết > 85% hồng cầu người, nhóm này có kháng nguyên Rh , gọi là Rh dương (Rh+); Số còn lại (không phản ứng) là nhóm người mà hồng cầu của họ không có kháng nguyên Rh, gọi là Rh âm (Rh-).

+ Vào khoảng 1940 -1950 Landsteiner và học trò phát hiện di truyền nhóm máu giữa bố, mẹ và con. Đồng thời qua nhiều thí nghiệm ông đã đưa ra kết luận: Các hệ M, N, P và Rh không có kháng thể tự nhiên, kháng thể chống kháng nguyên này chỉ có thể nhận được từ người mẹ chửa đẻ nhiều lần, hoặc người được truyền máu nhiều lần. Vì vậy ngày nay chúng ta gọi đó là kháng thể miễn dịch, còn kháng thể đặc hiệu của hệ nhóm máu ABO là kháng thể tự nhiên, chúng có sẵn từ thời kỳ phát triển phôi [10, 12, 16].

+ Cũng trong thời gian này, Landsteiner và Weiner đã thu hoạch huyết thanh thỏ được mẫn cảm bởi hồng cầu khỉ Rhesus (Rh+) so sánh với huyết thanh của bệnh nhân gây phản ứng truyền máu ngoài hệ ABO, kết quả thấy phản ứng (+) và âm tính tương tự như huyết thanh thỏ kháng hồng cầu khỉ (Rhesus). Đây là cơ sở để các tác giả bàn tới khả năng dùng globulin miễn dịch Rh bảo vệ bệnh tan máu ở trẻ sơ sinh. Đây là tiến bộ mới, đựơc coi như công trình thế kỷ trong công tác bảo vệ sức khoẻ con người [16].

Vấn đề chống đông máu trong truyền máu

Do nhu cầu máu cho điều trị ngày càng tăng, Braxton (1869) đưa ra dung dịch chống đông bằng  phosphate.  Sau  đó  Weil  (1915)  đưa  ra dung dịch Citrate, dung dịch này dùng suốt thời gian đại chiến thứ nhất. Tới năm 1936 do nhu cầu bảo quản dài ngày phục vụ cho chiến tranh dung dịch Citrate được thay thế bằng dung dịch acid – citrate dextrose (ACD) [11]. Tới đại chiến thế giới lần 2, để chống đông lượng máu lớn hơn, Loutit (1943) đã phát triển công thức ACD. Tác giả đã dùng tỷ lệ 70ml ACD chống đông 450 ml máu. Tỷ lệ này được dùng suốt trong thế chiến thứ 2. Sau đó, trong những năm1970 do nhu  cầu  bảo  quản  máu  dài  ngày  hơn,  chất chống đông mới CPD (citrate Phosphate Dex- trose) thay thế ACD. Thập kỷ cuối thế kỷ 20 dung dịch có thể bảo quản máu dài ngày hơn (35 – 42 ngày) đã được sử dụng, đó là CPD – A1 (Citrate – Phosphate – Dextrose – Adenine) v.v… Như vậy sự phát triển của các chất chống đông đã góp phần làm cho truyền máu an toàn hơn và phát triển thành các ngân hàng máu có khả năng trữ máu. CPD giữ máu 21 ngày, CPD – A1 bảo quản được 35 – 42 ngày ở nhiệt độ 2 – 60C. Cho tới nay chất chống đông và khả năng nuôi dưỡng hồng cầu, tiểu cầu của chất chống đông vẫn đang là vấn đề hấp dẫn các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực an toàn truyền máu.

Vấn đề người cho máu, ngân hàng máu và dụng cụ thu gom máu

Ngân hàng máu đầu tiên được xây dựng tại 1 bệnh viện ở Chicago (1936). Nhưng người cho máu vẫn là 1 vấn đề trở ngại. Cùng năm ở Nga cũng có ngân hành máu, Yudin lấy máu từ tử thi, những người đột tử hoặc chấn thương. Đây là một nguồn máu có thể dùng được nhưng rất hạn chế. Tuy nhiên thành công này của Yudin đã có tác dụng mạnh đến việc xây dựng ngân hàng máu (trữ máu).  Ở đại chiến thế giới thứ 2 do nhu cầu máu quá lớn, năm 1940 ở Mỹ, nước đầu tiên đã tổ chức chương trình thu gom máu qua hội chữ thập đỏ. Từ đó nhiều bệnh viện đã tổ chức thu gom máu và bảo quản máu như một ngân hàng máu [12]. Người cho máu được Hội Chữ Thập Đỏ hỗ trợ. Nhờ vậy người cho máu tình nguyện ngày càng tăng, thu gom máu ngày càng đựơc nhiều hơn, các dụng cụ thu gom máu do đó cũng phát triển nhanh chóng. Người ta đã dùng kim lồng vào dây chất dẻo và chai thuỷ tinh để thu gom máu, có nơi sáng tạo dùng bình Vacum để hút máu. Nhưng cách thu gom  này tạo ra các độc tố (pyrogen) trong chai máu gây nhiều phản ứng khi truyền máu. Trong chiến tranh vận chuyển máu bằng chai thuỷ tinh khó khăn, nên Murphy và nhiều tác giả khác ở Mỹ đã dùng túi sản xuất từ chất dẻo polyvinyl lấy máu thay chai. Cùng năm đó Gibson đã chứng minh túi làm từ plastic dẻo hơn, vô hại hơn so với nhựa polyvinyl đặc biệt dễ dàng tách huyết tương sau khi để lắng hoặc ly tâm. Ngay tức khắc các nước tiên tiến đã thay chai bằng túi plastic (1950 – 1960) và cũng từ đây vấn đề tách các thành phần máu và truyền máu từng thành phần đã nổi lên trong truyền máu.

* Về các bệnh nhiễm trùng truyền qua đường truyền máu: Lần đầu tiên Beeson (1943) đã mô tả một bệnh nhân bị viêm gan sau truyền máu, và thấy rằng số lượng truyền máu càng tăng thì viêm gan sau truyền máu cũng tăng theo rõ rệt [18]. Các  nhận xét về lâm sàng nói trên là cơ sở cho các thành công về nghiên cứu các virus truyền qua đường truyền máu. Trong thời gian này một loạt các virus có khả năng truyền qua đường truyền máu đã được phát hiện như HAV, HBV, HCV, HIV, HTLV, HGV…Trong đó HBV, HCV, HIV là các virus nguy hiểm nhất cho an toàn truyền máu, được đặc biệt quan tâm phải sàng lọc các vi rút này 100% đơn vị máu trước khi sử dụng. Nhờ vậy, hàng triệu người đã không bị lây nhiễm các bệnh nguy hiểm nói trên do truyền máu [18].

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment