Theo dõi và điều trị bệnh tắc tĩnh mạch võng mạc

Theo dõi và điều trị bệnh tắc tĩnh mạch võng mạc

Trình bày ba trường hợp tắc tĩnh mạch võng mạc với các biểu hiện và diễn biến lâm sàng khác nhau nhằm nêu bật tầm quan trọng của theo dõi chặt chẽ trong việc đưa ra các quyết định xử trí phù hợp. Ba (3) bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch võng mạc ở các mức độ khác nhau và được theo dõi trong một thời gian dài (2008-2010). Chỉ định điều trị bao gồm lade, tiêm ừiamcinolone và theo dõi đơn thuần. Kết quả: 3 bệnh nhân có thị lực hồi phục hoàn toàn hay một phần. Lade và triamcinolone có tác dụng ở bệnh nhân bị xuất huyết võng mạc và phù nề gai thị nhiều. Shunt hình thành ở bệnh nhân này sau 2 năm theo dõi. Hai bệnh nhân còn lại xuất huyết tự tiêu, phù hoàng điểm tự giảm mà không cần điều trị. Tốc độ máu lắng cao xuất hiện ở 2 bệnh nhân trẻ. Cao huyết áp và xơ mạch có thể là nguyên nhân tắc nhánh tĩnh mạch ở bệnh nhân lớn tuổi. Kết luận: Theo dõi chặt chẽ là điểm cơ bản với các bệnh nhân tắc tĩnh mạch võng mạc nhằm tránh những điều trị và can thiệp không cần thiết.

Bệnh tắc tĩnh mạch võng mạc được Leber phát hiện lần đầu vào năm 1877 [5]. Đây là căn bệnh mạch máu võng mạc thứ hai hay xuất hiện sau bệnh võng mạc đái tháo đường, về lâm sàng, bệnh biểu hiện bằng giảm thị lực đột ngột, xuất huyết, xuất tiết võng mạc [1]. Diện võng mạc tổn thương có thể khu trú trong tắc nhánh tĩnh mạch hay rộng trong tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc. Phù hoàng điểm, tân mạch võng mạc hay góc tiền phòng, glôcôm là những lý do gây mất thị lực về sau. Bệnh thường diễn biến theo hai thể: Thiếu máu và không thiếu máu. Thể thiếu máu được quan tâm hơn do có nhiều biến chứng liên quan. Đây là đề tài của nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, bệnh sinh vẫn chưa rõ ràng và cách thức điều trị thiếu chắc chắn. Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày ba trường hợp tắc tĩnh mạch võng mạc với các biểu hiện và diễn biến lâm sàng ít gặp, khác nhau nhằm nêu bật tầm quan trọng của theo dõi chặt chẽ trong việc đưa ra các quyết định xử trí phù hợp.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
Chúng tôi lựa chọn 3 bệnh nhân được chẩn đoán tắc tĩnh mạch võng mạc ở các lứa tuổi khác nhau (39, 19 và 65) với các bệnh cảnh lâm sàng khác nhau và được theo dõi điều trị trong một thời gian dài (2008-2010).
2.    Phương pháp
Các bệnh nhân đều được khám mắt thông thường, chụp ảnh đáy mắt và chụp mạch huỳnh quang. Bệnh nhân 1 và 2 được xét nghiệm toàn thân (máu lắng, yếu tố đông máu, huyết đồ và lao). Trong khi bệnh nhân 3 chỉ làm xét nghiệm mỡ máu vì huyết áp cao. Lade và tiêm triamcinolone dưới bao tenon được chỉ định với bệnh nhân 1. Hai bệnh nhân còn lại chỉ được theo dõi định kỳ.
III.    BỆNH ÁN
Bệnh nhân 1
Nam 39 tuổi, vào viện vì mắt phải đột nhiên nhìn mờ. Thị lực mắt phải đếm ngón tay (ĐNT) 50cm, mắt trái 10/10. Không có tiền sử bệnh toàn thân. Huyết áp bình thường, nhãn áp không cao. Tốc độ máu lắng cao. Khám đáy mắt phải thấy gai thị cương tụ phù nề, xuất huyết võng mạc rất nhiều, có máu cục nhỏ trong dịch kính (Hình 1A). Chụp mạch huỳnh quang ở các thời điểm khác nhau không thấy thiếu máu hay phù hoàng điểm. Sau 2 tháng theo dõi, thị lực không cải thiện. Chẩn đoán: Mắt phải tắc tĩnh mạch võng mạc. Bệnh nhân được điều trị bằng quang đông lade rải rác toàn võng mạc (200 ụm/ 300 mW/ 0,01 s) phối hợp tiêm triamcinolone dưới bao tenon (10 mg/ 3 tuần X 4 lần). Sau 1 năm thị lực cải thiện 1/10. Sau 2 năm theo dõi, shunt hình thành ở đầu gai thị, phù gai và xuất huyết võng mạc tiêu hết (Hình 1B).
Chú thích hình 1: A & B. Đáy mắt và chụp mạch lúc mới bị bệnh (phù gai, xuất huyết võng mạc), c & D. Đáy mắt 2 năm sau điều trị (võng mạc bình thường, các vết sẹo lade thưa và shunt hình thành ở đầu gai thị).

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment