Thiết kế một _ chương trình “in house software ” để sàng lọc các khuyết tật của ống thần kinh qua đánh giá nồng độ alpha- fetoprotein trong huyết thanh sản phụ ở quí hai của thai kì

Thiết kế một _ chương trình “in house software ” để sàng lọc các khuyết tật của ống thần kinh qua đánh giá nồng độ alpha- fetoprotein trong huyết thanh sản phụ ở quí hai của thai kì

Khuyết tật của ống thần kinh là một khuyết tật pho biến, việc sàng lọc trước sinh loại khuyết tật này bằng đánh giá nồng độ alpha- fetoprotein huyết thanh mẹ (AFPHTM) trong quý hai của thai kì đã được áp dụng phổ biến ở các nước phát triển. Tuy nhiên ở Việt nam mặc dù việc đánh giá AFPHTM không khó nhưng việc sàng lọc trước sinh KTOTK còn gặp nhiều khó khăn do giá phần mềm chuyên dụng đắt, giao diện tiếng Anh v.v… Một chương trình ”In-House Software” là một giải pháp để khắc phục hai khó khăn cơ bản này nhằm mở rộng công tác sàng lọc trước sinh đối với các KTOTK.
Summary
Neural tube defect (NTD) is one of the common defects, prenatal screening for it by maternal serum of alpha-fetoprotein (AFP) in second trimester of pregnancy has been routinely offered in developed countries. In Vietnam, although the test for measurement the concentration of AFP has been done commonly but the prenatal screening of NTDs has met some obstacles because of the costs of special softwares, their English user interface etc… The ”In House Software” will be a solution to resolve these problems and helps to extend the program of prenatal screening for NTDs.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các khuyết tật ống thần kinh (KTOTK) xuất hiện với tỉ lệ từ 1,4 đến 2/1000 lần mang thai và là loại khuyết tật phổ biến đứng hàng thứ hai trên thế giới sau các khuyết tật của tim [3]. Tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 4.000 thai nhi mắc loại khuyết tật này, một phần ba số đó bị sẫy thai ngẫu nhiên [3]. Trong các KTOTK, tình trạng quái thai vô não (anencephaly) chiếm khoảng một nửa số trường hợp KTOTK và không thể sống được. Đối với các trường hợp nứt gai đốt sống (spina bifida) nếu được điều trị sẽ có từ 80 – 90% trẻ mắc tật này có thể sống được nhưng sẽ bị khuyết tật ở những mức độ khác nhau [3][4]. Tuy nhiên đây là một trong số rất ít các khuyết tật bẩm sinh có thể dự phòng, dễ thực hiện các test sàng lọc và chẩn đoán trước sinh và việc điều trị trước sinh đang được nghiên cứu.
Trong thập niên 1980 các chương trình sàng lọc alpha fetoprotein trong huyết thanh mẹ AFPHTM đã được thực hiện để xác định các thai kì có nguy cơ bị khuyết tật hở của ống thần kinh (Open Neural Tube Defects: ONTDs) và quái thai vô não (anencephaly). Có từ 75 – 90% KTOTK hở và > 95% trường hợp quái thai vô não đã được phát hiện qua đánh giá AFPHTM [6]. Tật nứt gai đốt sống (spina bifida) cũng là một trong số các khuyết tật được Viện Hàn Lâm Khoa Học Quốc Gia Mỹ (NAS: National Academy of Science) xếp vào nhóm có những bằng chứng gợi ý có sự kết hợp với phơi nhiễm với chất diệt cỏ quân đội Mỹ sử dụng trong thời kỳ chiến tranh tại Việt Nam [20].
Tại Việt Nam việc sàng lọc và chẩn đoán KTOTK vẫn chưa nhận được nhiều quan tâm mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về hậu quả của chất diệt cỏ được quân đội Mỹ trong chiến tranh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là sự khó khăn trong việc thực hiện sàng lọc qua đánh giá nồng độ AFPHTM theo bội số của số trung vị (Multiples of Median: MoM) và chấn đoán bằng đánh giá AFP và Acetylcholinesterase trong dịch ối ở quý hai của thai kì. Các    phần    mềm    đánh giá nguy    cơ được    viết    bằng tiếng Anh,    thường    kết hợp    với    việc
sàng lọc các trường hợp bất thường số lượng NST của thai nhi và có giá khá cao nên khó áp dụng rộng rãi. Trên cơ sở đó chúng tôi thực hiện một chương trình “In House Software” chạy trên nền chương trình Excel để có thể thực hiện việc sàng lọc các KTOTK một cách đơn giản, có thể sử dụng rộng rãi và hoàn toàn miễn phí.
Tuổi thai
Tuổi thai được tính dựa trên ngày đầu của chu kì kinh cuối (last menstrual day: LMD) và dựa trên việc đánh giá đường kính lưỡng đỉnh (biparietal diameter: BPD) bằng siêu âm.
Theo ngày kinh cuối (LMD)
Phương pháp phổ biến nhất để tính tuổi thai là dựa vào ngày đầu của chu kì kinh cuối (LMP) [12] . Mặc dù việc tính tuổi thai theo ngày kinh cuối cũng đủ chính xác cho việc sàng lọc các KTOTK tuy nhiên việc tính tuổi thai bằng siêu âm quá đường kính lưỡng đỉnh chính xác hơn và cải thiện đáng kể độ nhạy và độ đặc hiệu của việc sàng lọc [12][17].
Theo siêu âm
Tuổi thai từ tuần thứ 14 trở về sau được cung cấp dựa trên kết quả đo đường kính lưỡng đỉnh bằng siêu âm [12]. Cũng cần lưu ý là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong chỉ số đánh giá tuổi thai theo BPD ở người Châu Á và Châu Âu từ tuần thai thứ 14 đến tuần thai thứ 20 [17]. Nếu việc tính tuổi thai dựa trên ngày đầu của chu kì kinh cuối (LMD) không được chắc chắn hoặc không thống nhất với kết quả khám thai thì kết quả siêu âm nên được sử dụng [17]. Ở thai nhi bị tật nứt gai đốt sống, trung bình tuổi thai được tính trên BPD sẽ nhỏ hơn hai tuần tuổi so với thai nhi bình thường [22]. Trong quý hai của thai kì nồng độ AFPHTM tăng trung bình 17% mỗi tuần ở thai kì bình thường nhưng trong trường hợp thai nhi mắc tật nứt gai đốt sống nồng độ này tăng cao hơn đến 45%, do đó nếu so với việc không sử dụng đánh giá tuổi thai bằng siêu âm, việc sử dụng tuổi thai đánh giá bằng siêu âm sẽ cho phép tăng tỉ lệ phát hiện từ 79 lên 91% ở tuần thai từ 16 đến 18 với ngưỡng nguy cơ là 2,5 MoM [22]. Mặt khác do việc đánh giá tuổi thai trong quá trình sàng lọc cho phép đánh giá chính xác hơn tuổi thai nên cũng làm tăng một ít tỉ lệ phát hiện [22].
Alphafetoprotein huyết thanh mẹ
Trong quý hai của thai kì, nồng độ AFPHTM tăng hằng định qua mỗi tuần [17][22], Nồng độ AFPHTM ở dạng khối lượng (ng/mL) hoặc đơn vị quốc tế (IU/mL) trước tiên sẽ được chuyển thành bội số trung vị (MoM: multiples of Median) tương ứng với tuổi thai của sản phụ và được hiệu chỉnh theo cân nặng của sản phụ [17][14][9]. Cần lưu ý là ngay giữa các lô sản xuất khác nhau của cùng một hãng sản xuất sinh phẩm cũng như giữa cùng một loại sản phẩm của các hãng sản xuất khác nhau đều có những sai số hệ thống, do đó mỗi phòng xét nghiệm cần thiết lập riêng hệ thống dữ liệu dựa vào hệ thống thiết bị và sinh phẩm đang sử dụng hoặc phải chứng minh nguồn dữ liệu thu được từ các nguồn khác phù hợp với quần thể được sàng lọc [17]

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment