Thiếu hụt G6PD, các dạng đột biến gen và HLA lớp II ở dân tộc Mường, Kinh tại Hoà Bình và Hà Nội
Thiếu hụt Glucose-6-Phosphate dehydrogenase (G6PD) là bênh di truyền thường gặp nhất trong các bênh thiếu hụt enzym của hổng cầu. Nó thường gây ra tình trạng thiếu máu tan huyết sau sử dụng một vài loại thuốc, thức ăn hay nhiễm khuẩn (1,7,10). Cho đến nay đã có nhiều công bố về tỷ lê thiếu hụt, các dạng khác nhau của phân tử G6PD (1,2,3). Với sự phát triển của sinh học phân tử thì cơ sở gen học của thiếu hụt G6PD, các dạng đột biến gen của nó đã và vẫn đang được nghiên cứu. Theo các tài liêu quốc tế đã công bố thì tỷ lê thiếu hụt enzym, các dạng đột biến gen này có sự khác nhau giữa các chủng tộc và vùng lãnh thổ (1,3). Ở Việt Nam từ những năm 70 – 80 và gần đây một số nhà khoa học đã quan tâm đến thiếu hụt G6PD. Các công bố đều cho thấy tỷ lê thiếu hụt và các dạng đột biến gen của nó có sự khác nhau rất lớn giữa các dân tộc và các vùng địa lý (7,8,9,10). Vậy sự khác nhau về tỷ lê thiếu hụt, về các dạng đột biến G6PD có liên quan gì đến vấn đề HLA của từng dân tộc. Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành xem xét tình trạng thiếu hụt G6PD với các dạng đột biến gen của nó và HLA lớp II của hai dân tộc Mường, Kinh sống ở hai địa điểm khác nhau nhưng gần nhau đó là Hoà Bình và Hà Nội, quanh Hà Nội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu:
– Phát hiên thiếu hụt G6PD và phân tích các dạng đột biến gen:
• 250 người Mường Hoà Bình
• 2810 người Kinh trong đó có 1871 trẻ sơ sinh Hà Nội và 979 bênh nhân vào khám tại Viên Quân Y 108, Hà Nội.
– HLA lớp II:
• 91 người Mường Hoà Bình
• 103 người Kinh sống ở Hà Nội và quanh Hà Nội.
2. Phương pháp nghiên cứu:
– Lấy máu từ gót chân (trẻ sơ sinh), đầu ngón tay (người lớn) vào giấy Whatman 1 hoặc S&S 903, lấy máu tĩnh mạch chống đông bằng EDTA, chiết tách DNA từ bạch cầu máu ngoại vi theo kỹ thuật Jean – Pierre (4).
– Phát hiên thiếu hụt: Kỹ thuật huỳnh quang định tính và kỹ thuật Tạo vòng Formazan bán định lượng – Kít của hãng Sigma.
– Phát hiên các điểm đột biến G6PD: Kỹ thuật PCR-MPTP (Multiplex PCR Using Tandem Primer) theo mô tả của Shiratawa và cộng sự (5) – Kít của hãng Sigma.
– Định týp HLA lớp II bằng kỹ thuật PCR-SSO (Sequence Specific Oligonucleotide, kít của INNO-LIPA Bỉ, đọc trình tự chuỗi trên máy ALF express TM DNA Sequence – Kít của Pharmacia. Trình tự HLA được xử lý bằng phần mềm của máy HLA Sequi Typer TM Pharmacia. Tần suất các alen được đánh giá bằng phương pháp tương tự tối đa có sử dụng chương trình ARLEQIN.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích