Thông báo ban đầu về tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan b trên người Việt Nam có kháng nguyên bề mặt HBSAG âm tính
Nhiễm virus viêm gan B (HBV) là vấn đề lớn của y học, khoảng hai phần ba dân số thế giới có tiền sử nhiễm HBV, trong đó gần 400 triệu người nhiễm HBV mạn tính có HBsAg dương tính. HBV là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan và ung thư gan.
Nhiễm HBV với HBsAg âm tính (Occult HBV infection) được xác định như sau: Xét nghiệm huyết thanh học HBsAg âm tính nhưng HBV-DNA dương tính trong huyết thanh hoặc trong nhu mô gan [5]. Trước đây nhiễm HBV ẩn có nhiều tên gọi khác nhau như: “Người mang HBV mà không có kháng nguyên bề mặt“ (Surface antigen negative carriers), “Viêm gan B có xét nghiệm huyết thanh âm tính” (Serologically silent hepatitis B) hay “Nhiễm HBV không nhận ra” (Unrecognized hepatitis B infection). Cơ chế sinh bệnh học của nhiễm HBV ẩn tính hiện nay còn nhiều điểm chưa sáng tỏ cả về khía cạnh miễn dịch học và di tru- yền phân tử. Có thể đây là một quá trình đòi hỏi sự tham gia của nhiều yếu tố khác nhau [5, 6].
Nồng độ HBV-DNA trên các đối tượng nhiễm HBV ẩn thường thấp hơn 4 logcopies/ml. Cơ chế nào vẫn duy trì sự nhân lên mà nồng độ HBV- DNA không cao vẫn còn là một câu hỏi cho các nghiên cứu trong tương lai. Tuy nhiên trong thực nghiệm cũng như thực tiễn lâm sàng đã chứng minh được khả năng gây bệnh và khả năng lây nhiễm của đối tượng nhiễm HBV ẩn, đặc biệt ở những người được gép tạng, gép tủy, truyền máu và chạy thận nhân tạo [5, 6].
Việt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ nhiễm HBV cao, tỷ lệ HBsAg dương tính ở người Việt Nam là trên 8% và ở một số khu vực nông thôn có thể lên đến 25% [1]. Tuy nhiên cho đến nay chưa có số liệu nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm HBV ẩn trên người Việt Nam. Chính vì vậy chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này nhằm bước đầu tìm hiểu tỷ lệ nhiễm HBV ẩn trên một số đối tượng thuộc các dân tộc khác nhau của cộng đồng dân tộc Việt Nam ở các độ tuổi khác nhau, thuộc khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trong nghiên cứu này là 80 người tình nguyện có HBsAg âm tính tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; thuộc 5 dân tộc khác nhau: Kinh (n = 8), Tày (n = 11), Giáy (n = 26), Mông (n = 26) và Dao đỏ (n = 9). Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 20,8 ± 18,7 (từ 1 đến 72 tuổi), 37 nam, 43 nữ. Không một đối tượng nghiên cứu nào trước đó từng được điều trị bằng thuốc kháng virus viêm gan B hay thuốc ức chế miễn dịch.
2. Phương pháp nghiên cứu
Huyết thanh thu thập từ các đối tượng nghiên cứu được bảo quản ở nhiệt độ âm sâu (-400C). Tách HBV-DNA bằng QIA amp DNA blood mini kit 250 theo qui chuẩn của công ty Qiagen, GmbH, cộng hòa liên bang Đức. Xác định kháng nguyên HBsAg âm tính hay dương tính bằng My- cell II HBsAg kit (Institue of immuno Co, Ltd., To- kyo, Japan).
Xác định sự hiện diện HBV-DNA trong huyết thanh đối tượng nghiên cứu bằng PCR lồng với hai bộ mồi (primers) đặc hiệu thuộc hai vị trí khác nhau trên bộ gen của HBV: Gen S và vùng Core- promoter/Pre-core. Quá trình phản ứng PCR được chạy trên máy ABI 9600 của Hoa Kỳ. Để tái khẳng định thêm một lần nữa sản phẩm sau PCR lồng chắc chắn là HBV-DNA, chúng tôi tiến hành bắt chọn ngẫu nhiên mười mẫu huyết thanh có HBV-DNA dương tính và tiến hành giải trình tự gen vùng Core-promoter/Pre-core với kít Big Dye Terminator, chạy trên máy ABI PRISM 3100 avant analyzer, kết quả có đối chiếu với các bản giải trình tự gen của HBV công bố trên GenBank.
3. Xử lý số liệu
Các thuật toán Mann-Whitney U, 2 và Fishers exact được sử dụng để xử lý số liệu bằng máy tính với chương trình Stata 8.0 (StataCorp). Giá trị p < 0,05 là ngưỡng khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Việt Nam nằm trong vùng có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B (HBV) cao nhưng cho đến nay chưa có số liệu nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HBV ẩn (có vi rus HBV như kết quả xét nghiệm kháng nguyên bề mặt HBsAg âm tính: Occult HBV infection). Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm HBV ẩn trên một số đối tượng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam ở các lứa tuổi khác nhau. Đối tượng, phương pháp: Mẫu huyết thanh thu thập trên 80 người tình nguyện có HBsAg âm tính từ năm dân tộc khác nhau: Kinh, Tày, Mông, Giáy và Dao. Tách HBV-DNA theo qui chuẩn, xác định HBV-DNA bằng PCR lồng (nested PCR) trên hai vùng khác nhau thuộc bộ gen HBV. HBV-DNA được tái xác định đặc hiệu bằng giải trình tự gen. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HBV với HBsAg âm tính trên đối tượng nghiên cứu rất cao 73/80 (91,3%) . Tỷ lệ HBV-DNA dương tính bằng PCR lồng trên vùng Core-promoter/Pre- core có độ nhạy cao hơn trên vùng gen S (91,3% so với 26,3%; p < 0,0001). Bản giải trình tự gen vùng Core- promoter/Pre-core ở đối tượng nghiên cứu hoàn toàn phù hợp khi đối chiếu với ngân hàng gen (GenBank). Tỷ lệ nhiễm HBV có HBsAg âm tính không có sự khác biệt giữa các dân tộc và ở các độ tuổi khác nhau (p > 0,05). Kết luận: Tỷ lệ nhiễm HBV ẩn trên người Việt Nam rất phổ biến trong nghiên cứu ban đầu này. Tuy nhiên, để khẳng định kết quả này cần tiếp tục triển khai nghiên cứu ở mức độ sâu hơn và qui mô lớn hơn
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích