Thông báo đầu tiên về nghiên cứu giá trị pivka – II trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt Nam nhiễm virus viêm gan b

Thông báo đầu tiên về nghiên cứu giá trị pivka – II trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt Nam nhiễm virus viêm gan b

Ung thư gan là một trong sáu loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới, ở nam giới ung thư gan đứng hàng thứ ba sau ung thư phổi và ung thư dạ dày. Virus viêm gan B (HBV: hepatitis B virus), virus viêm gan C (HCV: hepatitis C virus) và rượu là những nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan (XG) và ung thư gan (UTG). Đến nay, mặc dù nhiều loại thế hệ thuốc thuộc nhóm chất tương đồng nucleotide (nucleot/side analogue) được phát triển thành công, cũng như việc triển khai áp dụng điều trị bằng Peg – interferon (Pegasys, Pegintron) rộng rãi hơn, nhưng hiệu quả điều trị viêm gan B mạn tính vẫn chưa được như mong đợi. Chúng ta vẫn chưa đạt được khái niệm làm sạch HBV trong điều trị viêm gan B mạn tính, HBV và bệnh lý do HBV gây nên vẫn là một gánh nặng cho nhân loại, đồng thời cũng là một thách thức cho y học. Hiện nay, trên toàn thế giới, mỗi năm có khoảng 0,5 triệu bệnh nhân UTG mới được phát hiện. Một số nhà nghiên cứu y học nhận định, số bệnh nhân UTG vẫn tiếp tục gia tăng trong một vài thập kỷ tới.

Khoảng 85 – 90% bệnh nhân UTG có kèm theo XG ở các mức độ khác nhau. Hiệu quả điều trị UTG phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của khối U, bệnh lý gan và toàn thân, có di căn hay chưa có di căn. UTG được phát hiện sớm, đặc biệt trên bệnh nhân tổn thương XG chưa nặng, có tiên lượng tốt và có khả năng kéo dài cuộc sống trên 5 năm rất cao. Đây chính là lý do nhiều nhà y học đi sâu tìm hiểu nghiên cứu và đưa ra các

giải pháp chẩn đoán UTG giai đoạn sớm. Cùng với sự phát triển của chuyên ngành chẩn đoán hình ảnh, chụp cắt lớp vi tính (CT) và cộng hưởng từ hạt nhân (MRI), y học ngày càng có khả năng chẩn đoán ung thư gan ở giai đoạn sớm và giai đoạn rất sớm. Tuy nhiên, cả CT và MRI đều có giá thành đều tương đối cao, hơn nữa về mặt trang thiết bị cũng khó triển khai làm công tác sàng lọc trong  cộng  đồng.  Do  vậy  hiện  nay,  siêu  âm thường qui kết hợp với xét nghiệm alpha – fetopro- tein (AFP), với ưu điểm giá thành rẻ và dễ triển khai vẫn là phương pháp chủ yếu được áp dụng trên thế giới để sàng lọc và phát hiện bệnh nhân UTG giai đoạn sớm. Nhưng nhược điểm của siêu âm là phụ thuộc vào năng lực của người làm, thời điểm tiến hành làm trong ngày và thể trạng bệnh nhân, do vậy siêu âm có độ nhạy dao động cao. AFP cho đến thời điểm hiện tại vẫn là một dấu ấn (marker) sinh học chưa thể thay thế trong chẩn đoán và  theo  dõi  hiệu  quả  điều  trị  UTG.  Tuy nhiên trong chẩn đoán UTG, việc sử dụng AFP có thể bỏ sót tới 40% bệnh nhân, bên cạnh đó nhiều bệnh nhân viêm gan và xơ gan cũng có tăng nồng độ AFP tương đối cao và nồng độ AFP không có mối tương quan chặt chẽ với kích thước khối U gan [4, 5, 7].

Trong một vài thập kỷ gần đây, việc tìm ra một marker sinh học có khả năng thay thế hoặc hỗ trợ cùng AFP trong chẩn đoán sớm và theo dõi hiệu quả điều UTG được các nhà y học không ngừng quan tâm nghiên cứu. Đến nay có hàng chục marker sinh học đã được tìm ra, nhưng chỉ có khoảng hơn 10 marker trong số đó được đánh giá là có triển vọng khả quan trong thực hành lâm sàng [7]. Một trong các marker đó là PIVKA – II, một protein được tạo ra do sự tiếu hụt vitamin K, hay còn được gọi là des – gamma – carboxy prothrombin (DCP). Vai trò của PIVKA – II trong chẩn đoán và theo dõi hiệu quả điều trị UTG ngày càng được quan tâm nghiên cứu ở cộng đồng bệnh nhân thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới. Một số nghiên cứu nhận thấy PIVKA – II có giá trị cao hơn AFP trong chẩn đoán và tiên lượng ở bệnh nhân UTG [3, 9, 10]. Tuy vậy, nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất quan điểm PIVKA – II và AFP có tác dụng hỗ trợ nhau, PIVKA – II chưa thực sự có khả năng vượt trội hoàn toàn để có thể loại bỏ được AFP trong thực hành lâm sàng.

Là nước thuộc vùng tây Thái Bình Dương, một trong những khu vực có tỷ lệ nhiễm HBV cao nhất thế giới với đường lây truyền chủ yếu từ mẹ sang con, tỷ lệ nhiễm HBV tại một số tỉnh – thành ở Việt Nam có thể lớn hơn 15% dân số [2, 8]. HBV là nguyên nhân hàng đầu gây viêm gan mạn (VGM), XG và UTG. Tại Việt Nam, UTG cũng là một trong những ung thư phổ biến nhất và có tỷ lệ tử vong cao. Với khoảng 75% dân số sống tại nông thôn và điều kiện chăm sóc y tế còn chưa đồng đều giữa nông thôn và thành thị, do vậy rất nhiều bệnh nhân UTG tại Việt Nam khi đi khám ở giai đoạn bệnh đã muộn hoặc rất muộn. Điều này lý giải tại sao tỷ lệ bệnh nhân UTG có đời sống kéo dài trên 5 năm còn khá thấp. Việc sàng lọc bệnh nhân UTG tại Việt Nam về căn bản cũng dựa chủ yếu vào siêu âm và có hay không có kết hợp với xét nghiệm AFP (do nhiều bệnh viện nhỏ và phòng khám chưa có khả năng triển khai làm AFP). Nhưng đến nay, tại Việt Nam việc nghiên cứu các dấu ấn sinh học thay thế hay hỗ trợ cùng AFP trong thực hành lâm sàng còn rất hạn chế, chưa có nghiên cứu đi sâu tìm hiểu giá trị của PIVKA – II trong chẩn đoán và theo dõi tiên lượng hiệu quả điều bệnh nhân UTG. Do vậy nghiên cứu này được tiến hành với mục  tiêu:

Bước đầu đánh giá vai trò của PIVKA – II trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt Nam nhiễm virus viêm gan B.

Ung thư gan (UTG) rất phổ biến và có tỷ lệ tử vong cao. Alpha – fetoprotein (AFP) là dấu ấn sinh học duy nhất được sử dụng để chẩn đoán UTG tại Việt Nam, nghiên cứu các dấu ấn sinh học khác như PIVKA – II (protein tạo ra do sự thiếu hụt vitamin K) còn rất hạn chế. Mục tiêu: bước đầu đánh giá vai trò của PIVKA – II trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt Nam nhiễm virus viêm gan B. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu bao gồm 104 bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B (HBV) được chia làm bốn nhóm, người lành mang virus (NLMVR), viêm gan mạn tính (VGM), xơ gan (XG) và UTG. AFP được xác định bằng ELISA, PIVKA – II được xác định bằng Eitest PIVKA – II của công ty Eisai, Nhật Bản. Nồng độ HBV – DNA và kiểu gen của HBV được xác định tương ứng bằng real – time PCR và PCR – RFLP. Chẩn đoán UTG được xác định bằng mô bệnh học. Kết quả: PIVKA – II có độ nhạy cao hơn và độ đặc hiệu thấp hơn AFP ở tất cả các mức nồng độ phân tích. Kết hợp hai dấu ấn có độ đặc hiệu cao hơn và tỷ lệ chẩn đoán đúng tốt hơn. Nồng độ PIVKA – II và AFP đều tăng dần từ nhóm NLMVR đến VGM, XG và cao nhất ở nhóm UTG, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Phân tích đơn biến cho thấy tuổi (≥ 50), kiểu gen C của HBV, AFP (≥ 20ng/mL) và PIVKA – II (≥ 40 mAU/mL) là những yếu tố nguy cơ có ý nghĩa thống kê đối với XG và UTG. Tuy nhiên, phân tích đa biến cho thấy chỉ có tuổi (≥ 50), kiểu gen C của HBV và PIVKA – II (≥ 40 mAU/mL) là những yếu tố nguy cơ có ý nghĩa thống kê đối với XG và UTG. Kết luận: PIVKA – II là dấu ấn sinh học có giá trị và có vai trò hỗ trợ tốt AFP trong chẩn đoán UTG.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment