Thông báo đầu tiên về nghiên cứu giá trị pivka – ii trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt Nam nhiễm virus viêm gan b

Thông báo đầu tiên về nghiên cứu giá trị pivka – ii trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt Nam nhiễm virus viêm gan b

Ung thư gan là một trong sáu loại ung thư phổ biến  nhất  trên  thế  giới,  ở  nam  giới  ung  thư  gan đứng hàng thứ ba sau ung thư phổi và ung thư dạ dày.  Virus  viêm  gan  B  (HBV:  hepatitis  B  virus), virus viêm gan C (HCV: hepatitis C virus) và rượu là những nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan (XG) và  ung  thư  gan  (UTG).  Đến  nay,  mặc  dù  nhiều loại  thế  hệ  thuốc  thuộc  nhóm  chất  tương  đồng nucleotide (nucleot/side analogue) được phát triển thành  công,  cũng  như  việc  triển  khai  áp  dụngđiều trị bằng Peg – interferon (Pegasys, Pegintron)  rộng rãi hơn, nhưng hiệu quả điều trị viêm gan B mạn tính vẫn chưa được như mong đợi. Chúng ta vẫn chưa đạt được khái niệm làm sạch HBV trong điều trị viêm gan B mạn tính, HBV và bệnh lý do  HBV  gây  nên  vẫn  là  một  gánh  nặng  cho  nhân loại, đồng thời cũng là một thách thức cho  y học. Hiện nay, trên toàn thế giới, mỗi năm có khoảng 0,5  triệu  bệnh  nhân  UTG  mới  được  phát  hiện. Một số nhà nghiên cứu y học nhận định, số bệnh nhân  UTG  vẫn  tiếp  tục  gia  tăng  trong  một  vàithập kỷ tới.Ung thư gan (UTG) rất phổ biến và có tỷ lệ tử vong cao. Alpha – fetoprotein (AFP) là dấu ấnsinh học duy nhất được sử dụng để chẩn đoán UTG tại Việt Nam, nghiên cứu các dấu ấn sinh học khác như PIVKA – II (protein tạo ra do sự thiếu hụt vitamin K) cònrất hạn chế.Mục tiêu:bước đầu đánh giá vai trò của PIVKA – II trong chẩn đoán ung thư gan ở bệnh nhân Việt  Nam nhiễm virus viêm gan B.Đối tượng và phương pháp:nghiên cứu bao gồm 104 bệnh nhân nhiễm virus  viêm gan B (HBV) được chia làm bốn nhóm, người lành mang virus (NLMVR), viêm gan mạn tính (VGM), xơ gan (XG) và UTG. AFP được xác định bằng ELISA, PIVKA – II được xác định bằng Eitest PIVKA – II của công ty Eisai, Nhật Bản. Nồng độ HBV – DNA và kiểugen của HBV được xác định tương ứng bằng real – time PCR và PCR – RFLP. Chẩn đoán UTG được xác định bằng mô bệnh học. Kết quả:PIVKA – II có độ nhạy cao hơn và độ đặc hiệu thấp hơn AFP ở tất cả các mức nồng độ phân tích. Kết hợp hai dấu ấn có độ đặc hiệu caohơn và tỷ lệ chẩn đoán đúng tốt hơn. Nồng độ PIVKA – II và AFP
đều tăng dần từ nhóm NLMVR đến VGM, XG và cao nhất ở nhóm UTG, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Phân tích đơn biến cho thấy tuổi (=50), kiểu gen C của HBV, AFP (=20ng/mL) và PIVKA – II (=40 mAU/mL) là những yếu tố nguy cơ có ý nghĩa thống kê đối với XG và UTG. Tuy nhiên, phân tích đa biến cho thấy chỉ có tuổi (=50), kiểu gen C của HBV và PIVKA – II (=40 mAU/mL) là những yếu tố nguy cơ có ý nghĩa thống kê đối với XG

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment